Trang chủ

Về chúng tôi

Tin tức

Liên hệ

BẢO TÀNG BÌNH THUẬN

4

3

1

2

<<

>>

TỔNG QUAN

Nội dung chi tiết
Giới thiệu văn hoá dân tộc Kinh: Hơn 300 năm (1692) hình thành, xây dựng và phát triển quê hương Bình Thuận, đến hôm nay trong tất cả các thời kỳ lịch sử - văn hóa của người Kinh (Việt) luôn luôn giữ vai trò là văn hóa chủ thể để cùng các dân tộc anh em khác xây dựng và bảo vệ quê hương. Trong đó ngoài những giá trị về văn hóa vật chất còn lưu giữ và phát huy như đình làng, lăng vạn, chùa chiền… thì văn hóa tinh thần luôn luôn nổi trội để duy trì và phát huy những giá trị của văn hóa hóa truyền thống.
 Trong dòng chảy đó của lịch sử, những di sản văn hóa luôn mang đậm dấu ấn của lịch sử, của văn hóa và của thời gian.
 Những di sản văn hóa ấy đã cho chúng ta nhìn nhận lại lịch sử một cách tổng quát trên cơ sở những hiện vật, những tư liệu và hình ảnh cụ thể, sinh động và bao quát. Tất cả các thời kỳ lịch sử đã qua đều được ghi lại bằng hiện vật và tư liệu lịch sử qua các bộ sưu tập chọn lọc.
 Do điều kiện về diện tích trưng bày trong đề cương trưng bày chuyên đề về văn hóa dân tộc Kinh (Việt). Hiện vật, hình ảnh và tài liệu lịch sử phải được chọn lựa phù hợp với nội dung trưng bày chuyên đề. Trong đó các sưu tập hiện vật, cổ vật nói về lịch sử hình thành, sinh hoạt văn hóa tinh thần, vật chất, lễ nghi, lễ hội đến những kiến trúc đình làng, chùa chiền… Chú trọng đến các sưu tập cổ vật trong văn hóa Phật giáo, trong văn hóa đình làng, chùa chiền và một số hiện vật liên quan đến các cuộc chiến tranh trong lịch sử.

VĂN HÓA DÂN TỘC KINH (VIỆT)

Tin tức chính

Danh mục

ĐẠI HỒNG CHUNG

Nội dung chi tiết
 Hiện vật do người dân phường Đức Nghĩa, thành phố Phan Thiết góp tiền để đúc, các nghệ nhân đúc nổi thành hình mặt trời, rồng giao nhau tạo thành quai treo rất đẹp.
Niên đại: thế kỷ XIX


Nội dung chi tiết

CHẢO

Chủ nhân là ông Võ Duy Trung, thôn 2, xã Hồng Sơn, huyện Hàm Thuận Băc.
Chảo được ông phát hiện trong lúc đào cây thuốc nam tại khu vực Động cát thôn 1.
Niên đại: thế kỷ XIX

Nội dung chi tiết

CỐI GIÃ GẠO

Chủ nhân là ông Đặng Sỹ, xã Thuận Hoà, huyện Hàm Thuận Bắc.
Ông nhờ bộ đội Hoành Sơn đục cho cối từ tảng đá lớn, chày do ông tự làm. Gia đình ông dùng bộ cối này để giã gạo phục vụ cho cán bộ, du kích xã và gia đình suốt những năm tháng chiến tranh ác liệt.

Nội dung chi tiết

CỐI XAY LÚA

Chủ nhân là bà Lê Thị Thanh, xã Hàm Thắng, huyện Hàm Thuận Bắc.
Cối xay lúa này do gia đình bà tạo nên để xay lúa làm ra gạo nuôi gia đình từ năm 1970-1975.
Cối được làm từ những nan trúc và đất, xung quanh trét phân trâu để chống mối mọt, rất đơn giản nhưng cũng rất có ích cho người nông dân trong thời kỳ đất nước ta còn nghèo nàn.
Cối

HỦ GỐM 

Nội dung chi tiết
Chủ nhân là ông Quảng Đại Thể, dân tộc Chăm ở xã Phan Thanh, huyện Bắc Bình.
Chiếc hũ sành do cha mẹ ông để lại, ông sử dụng để đựng nước phục vụ trong sinh hoạt gia đình từ năm 1970 - 2009.

HŨ GỐM

Nội dung chi tiết
Niên đại: thế kỷ XI (thời Tống, Trung Quốc)
Xuất xứ: Do ông Nguyễn Ngọc Hà ở khu phố Phú Cường- thị trấn Phú Long, huyện Hàm Thuận Bắc phát hiện năm 1992 trong lúc đào đất trồng thanh long.
Hũ gốm có men xanh xám, bên trong và ngoài được tráng men. Hình dáng dạng quả trứng, miệng đứng dày, gờ miệng không tráng men, xung quanh gần miệng đắp 6 núm vai ngang, bên trên khắc 01 chữ Hán “ Thượng”, thân tróc men có màu xám, chân có màu táp lửa (nâu xám).
Theo kết quả giám định của TS. Nguyễn Đình Chiến: Hũ gốm là tác phẩm mỹ thuật vô giá, còn nguyên vẹn, có giá trị trưng bày, nghiên cứu về khảo cổ học, về lịch sử văn hóa.
Vấn đề đặt ra ở đây là đồ gốm sứ Trung Quốc từ đời Tống lại có mặt tại Bình Thuận (thế kỷ XI thuộc vương quốc Chămpa). Điều này chứng minh sinh động về mối quan hệ giao lưu, tiếp biến văn hóa của cư dân Chămpa với người Tống qua buôn bán hoặc quà tặng qua những lần đi sứ, triều cống.


HŨ NƯỚC MẮM TĨNH

Nội dung chi tiết
Tên gọi “nước mắm tĩn” xuất phát từ gần 300 trăm năm trước khi người dân làng chài xưa tại Phan Thiết thời bấy giờ kéo rút nước mắm nhất nguyên chất (mắm nhỉ nước đầu tiên) từ thùng lều gỗ cho vào cái tĩn gốm (bình gốm), sau đó dùng ghe bầu chở đi bán tại các tỉnh, thành trong nước. Nước mắm tín có độ đạm rất cao và đậm đặc, nên một chai nước mắm Tĩn về nguyên tắc có thể làm ra 3 đến 4 chai nước mắm thông thường.
Dòng nước mắm đầu tiên được rút ra khỏi thùng lều gỗ được người dân làng chài xưa Phan Thiết gọi là mắm nhỉ. Đặc trưng của nước mắm nhỉ là sự sánh đặc thịt cá với vị mặn nhẹ đầu lưỡi và hậu dịu ngọt của cá. Nước mắm tĩn chính là loại nước mắm nhỉ nguyên chất quý giá đó.
Nước mắm tĩn được Bảo tàng nước mắm Làng Chài Xưa ở Phan Thiết khôi phục và chế biến theo công thức làm nước mắm từ 300 năm trước. Nước mắm đựng trong bình gốm như xưa sau khi kéo rút trực tiếp từ thùng lều gỗ với cá cơm than con to béo tươi và muối tinh khiết, tự nhiên, truyền thống, không chất bảo quản.

HƯƠNG ÁN

Nội dung chi tiết
Là đồ thờ tự trong đình làng của Nhân dân phường Đức Nghĩa, Tp. Phan Thiết, được các nghệ nhân trạm trổ nhiều họa tiết dân gian xưa bao quanh hết sức nghiêm trang, chiếc hương án được sơn son thếp vàng đặt ở nơi long trọng nhất của Hội Nghĩa Trũng.


TỔNG QUAN

Nội dung chi tiết
Giới thiệu văn hoá dân tộc Kinh: Hơn 300 năm (1692) hình thành, xây dựng và phát triển quê hương Bình Thuận, đến hôm nay trong tất cả các thời kỳ lịch sử - văn hóa của người Kinh (Việt) luôn luôn giữ vai trò là văn hóa chủ thể để cùng các dân tộc anh em khác xây dựng và bảo vệ quê hương. Trong đó ngoài những giá trị về văn hóa vật chất còn lưu giữ và phát huy như đình làng, lăng vạn, chùa chiền… thì văn hóa tinh thần luôn luôn nổi trội để duy trì và phát huy những giá trị của văn hóa hóa truyền thống.
 Trong dòng chảy đó của lịch sử, những di sản văn hóa luôn mang đậm dấu ấn của lịch sử, của văn hóa và của thời gian.
 Những di sản văn hóa ấy đã cho chúng ta nhìn nhận lại lịch sử một cách tổng quát trên cơ sở những hiện vật, những tư liệu và hình ảnh cụ thể, sinh động và bao quát. Tất cả các thời kỳ lịch sử đã qua đều được ghi lại bằng hiện vật và tư liệu lịch sử qua các bộ sưu tập chọn lọc.
 Do điều kiện về diện tích trưng bày trong đề cương trưng bày chuyên đề về văn hóa dân tộc Kinh (Việt). Hiện vật, hình ảnh và tài liệu lịch sử phải được chọn lựa phù hợp với nội dung trưng bày chuyên đề. Trong đó các sưu tập hiện vật, cổ vật nói về lịch sử hình thành, sinh hoạt văn hóa tinh thần, vật chất, lễ nghi, lễ hội đến những kiến trúc đình làng, chùa chiền… Chú trọng đến các sưu tập cổ vật trong văn hóa Phật giáo, trong văn hóa đình làng, chùa chiền và một số hiện vật liên quan đến các cuộc chiến tranh trong lịch sử.

VĂN HÓA DÂN TỘC KINH (VIỆT)

Tin tức chính

Danh mục

NỒI ĐỒNG (1004)

Nội dung chi tiết
Chủ nhân là ông Nguyễn Thanh Hải, khu phố 2, phường Bình Hưng, thành phố Phan Thiết.
Nồi đồng là vật dụng để nấu cơm, thức ăn phục vụ cuộc sống, lễ nghi truyền thống của dân tộc Việt Nam ở thế kỷ XVIII-XIX.
Trong đời sống xã hội ngày xưa những gia đình giàu có thường sử dụng nồi đồng được sử dụng để nấu cơm và làm đồ đựng rất phổ biến. Nồi đồng được đúc từ đồng thau, kiểu dáng đáy cong bầu, cổ thắt, miệng loe nhằm tạo thế vững chãi và chắc chắn chắn khi đun nấu.


Nội dung chi tiết

HOÀNH PHI - CÂU ĐỐI

Bảo tàng tỉnh Bình Thuận sưu tầm của Phòng Văn hóa và Thông tin thành phố Phan Thiết.
Bức hoành phi do các nghệ nhân tạo ra, bề ngoài giống hình quyển sách vở, có 3 chữ “ Nghĩa Trũng tự” và xung quanh chạm nổi hình con dơi.
Câu đối: Tổng số có 13 câu, là hiện vật điêu khắc gỗ ở thế kỷ XIX. Người ta dùng những câu đối này để treo lên bức tường hoặc cột gỗ trang trí ở nội thất của “Nghĩa Trũng tự”. Những câu đối này do nhân dân Đức Nghĩa tạo ra và tặng lại cho Hội Nghĩa Trũng vào năm Kỷ Mùi. Năm 1980, nơi thờ tự của Hội Nghĩa Trũng bị sụp đổ, sau đó người dân địa phương đã giao lại cho Phòng Văn hóa và Thông tin Phan Thiết, năm 1994 giao lại cho Bảo tàng tỉnh.

Nội dung chi tiết

MÂM ĐỒNG

Chủ nhân là bà Lương Thị Lê, xã Hàm Đức, huyện Hàm Thuận Bắc.
 Bà mua vào năm 1962 để sử dụng trong gia đình.
Mâm đồng là vật dụng truyền thống sử dụng để bưng và đựng thức ăn trong bữa cơm hằng ngày của gia đình vào việc đựng thức ăn và dùng trong lễ hội cúng bái.

4

3

1

2

<<

>>

 SẮC PHONG VUA KHẢI ĐỊNH

Nội dung chi tiết
Triều đình Nhà Nguyễn sắc phong cho Thành hoàng Bổn cảnh tại các làng quê đã có công bảo trợ, chở che cho dân làng có cuộc sống bình an, ấm no, hạnh phúc. 

SÚNG THẦN CÔNG

Nội dung chi tiết
Niên đại: thế kỷ XIX
Trong quá trình đi rà phế liệu tại khu vực Suối Le, thuộc thôn 1, xã Gia Huynh, huyện Tánh Linh. Anh Lê Văn Phong đã phát hiện số súng này, tất cả là có 24 khẩu súng thần công sắp xếp, chôn giấu cẩn thận và phủ một lớp đất dày 60cm bên trên.
 Nhận được tin báo, tháng 3/2006 Bảo tàng Bình Thuận tổ chức chuyến điều tra, khảo sát tại khu vực phát hiện 24 khẩu súng nói trên, để bổ sung tư liệu phục vụ công tác nghiên cứu. Sau đó ông Lê Văn Hương (cha em Lê Văn Phong) nhượng lại cho Bảo tàng Bình Thuận. Tuy nhiên, trong thời gian này ngân sách của tỉnh khó khăn nên chưa giao tiền được cho ông Hương.
 Tháng 10/2006 ông Hương đã nhượng 24 khẩu súng trên cho Bảo tàng Lịch sử Tp. Hồ Chí Minh. Và được sự thỏa thuận của. Sau đó, Bảo tàng Lịch sử thành phố Hồ Chí Minh đã nhượng lại cho Bảo tàng Bình Thuận 12 khẩu súng (10 khẩu chất liệu sắt, 2 khẩu chất liệu đồng).
Súng thần công có 2 loại: loại có càn chống giúp giữ thăng bằng để bắn và loại không có càn chống.



NỒI ĐỒNG (927)

Nội dung chi tiết
Chủ nhân là bà Trần Thị Thu Hương,
Thị trấn Phan Rí Cửa, huyện Tuy Phong.
Nồi đồng là vật dụng phục vụ cuộc sống, lễ nghi truyền thống của dân tộc Việt Nam ở thế kỷ XVIII-XIX.
Trong đời sống xã hội ngày xưa những gia đình giàu có thường sử dụng nồi đồng để nấu cơm và làm đồ đựng rất phổ biến. Nồi đồng được đúc từ đồng thau, kiểu dáng đáy cong bầu, cổ thắt, miệng loe nhằm tạo thế vững chãi và chắc chắn chắn khi đun nấu.


 SẮC PHONG VUA TỰ ĐỨC

Nội dung chi tiết
Chủ nhân là ông Lê Nhự, xã Bình Thạnh, huyện Tuy Phong.
Triều đình Nhà Nguyễn và Tuần phủ Bình Thuận, Khánh Hoà đã ban cấp cho 2 ông: Lê Non và Lê Văn Châm đã có công trong việc thực hiện nhiệm vụ lãnh đạo, chỉ huy quân sĩ thuộc các đội thuỷ binh bảo vệ, tuần phòng vùng biển Bình Thuận- Khánh Hoà.

ĐẠN

Nội dung chi tiết
Hiện vật do ông Nguyễn Học ở thị trấn La Gi, huyện Hàm Tân trục vớt ở vùng biển Hàm Thuận Nam.


TỔNG QUAN

Nội dung chi tiết
Giới thiệu văn hoá dân tộc Kinh: Hơn 300 năm (1692) hình thành, xây dựng và phát triển quê hương Bình Thuận, đến hôm nay trong tất cả các thời kỳ lịch sử - văn hóa của người Kinh (Việt) luôn luôn giữ vai trò là văn hóa chủ thể để cùng các dân tộc anh em khác xây dựng và bảo vệ quê hương. Trong đó ngoài những giá trị về văn hóa vật chất còn lưu giữ và phát huy như đình làng, lăng vạn, chùa chiền… thì văn hóa tinh thần luôn luôn nổi trội để duy trì và phát huy những giá trị của văn hóa hóa truyền thống.
 Trong dòng chảy đó của lịch sử, những di sản văn hóa luôn mang đậm dấu ấn của lịch sử, của văn hóa và của thời gian.
 Những di sản văn hóa ấy đã cho chúng ta nhìn nhận lại lịch sử một cách tổng quát trên cơ sở những hiện vật, những tư liệu và hình ảnh cụ thể, sinh động và bao quát. Tất cả các thời kỳ lịch sử đã qua đều được ghi lại bằng hiện vật và tư liệu lịch sử qua các bộ sưu tập chọn lọc.
 Do điều kiện về diện tích trưng bày trong đề cương trưng bày chuyên đề về văn hóa dân tộc Kinh (Việt). Hiện vật, hình ảnh và tài liệu lịch sử phải được chọn lựa phù hợp với nội dung trưng bày chuyên đề. Trong đó các sưu tập hiện vật, cổ vật nói về lịch sử hình thành, sinh hoạt văn hóa tinh thần, vật chất, lễ nghi, lễ hội đến những kiến trúc đình làng, chùa chiền… Chú trọng đến các sưu tập cổ vật trong văn hóa Phật giáo, trong văn hóa đình làng, chùa chiền và một số hiện vật liên quan đến các cuộc chiến tranh trong lịch sử.

VĂN HÓA DÂN TỘC KINH (VIỆT)

Tin tức chính

Danh mục

BÀN ỦI

Nội dung chi tiết
Chủ nhân là bà Nguyễn Thị Phương Hạnh, xã Tân Thuận, huyện Hàm Thuận Nam.
Bàn ủi là vật dụng của gia đình, xuất hiện ở thế kỷ XIX-XX.

Nội dung chi tiết

HŨ VÔI

Phát hiện tại đất ruộng của ông Phạm Xuân Trúc, khu phố Phú An, thị trấn Phú Long, huyện Hàm Thuận Bắc, nằm cách mặt đất 20cm .
Nội dung chi tiết

THANG LEO YÊN NGỰA

Là vật dụng của một số quan lại hoặc tầng lớp thượng lưu thời phong kiến sử dụng.
Niên đại: thế kỷ XVII-XIX

4

3

1

2

<<

>>

MÂM ĐỒNG

Nội dung chi tiết
Bảo tàng tỉnh Bình Thuận sưu tầm từ Phòng Văn hóa và Thông tin huyện Đức Linh.
Mâm đồng có kiểu dáng hình tròn, bề mặt để trơn không trang trí hoa văn. Tuy nhiên, có một số trường hợp ngoại lệ bề mặt mâm được chạm khắc một số loại hoa văn rất tinh tế như hoa sen, cúc, rồng, phượng. Những loại mâm có chạm khắc này thường được vua chúa, giới quý tộc trong xã hội dưới thời phong kiến sử dụng. Mâm đồng được sử dụng trong lễ hội, cúng bái, dùng để trái cây hoặc đồ cúng.

NGOÁY TRẦU

Nội dung chi tiết
Chủ nhân là bà Dương Thị Nhị, xã Phong Nẫm, thành phố Phan Thiết.
Ngoáy trầu này do bà ngoại của bà Nhị để lại cho bà.
Tục ăn trầu có từ thời Hùng Vương và gắn với câu chuyện cổ tích “Trầu Cau” Người Việt có quan niệm “Miếng trầu là đầu câu chuyện”, giúp con người người gần gũi, cởi mở với nhau hơn. Trầu cau không chỉ là lễ vật trong các nghi lễ như: tế tự, tang ma, cưới hỏi mà còn là biểu tượng của tình yêu, tình nghĩa anh em, vợ chồng…


BÀN TÍNH

Nội dung chi tiết
Bàn tính là một công cụ tính toán được sử dụng phổ biến ở Châu Á. Người Việt Nam ngày xưa thường sử dụng bàn tính để tính tiền và phát triển dần thành các loại máy tính điện tử sau này. Bàn tính chia ngang thành 2 phần, một phần có 2 hạt mỗi trục và 1 phần có 5 hạt mỗi trục. 

BÌNH

Nội dung chi tiết
Chủ nhân là ông Trần Ngừng, xã Đức Chính, huyện Đức Linh.
Bình này do Nhân dân ở thôn 3 xã Đức Chính phát hiện trong lòng đất năm 1991, sau đó chuyển nhượng lại cho ông.

ỐNG NHỔ

Nội dung chi tiết
Chủ nhân là ông Nguyễn Thanh Bảo, xã Hồng Phong, huyện Bắc Bình.
Chiếc ống được ông thu nhặt được trong lúc rà phế liệu tại khu rừng Lê Hồng Phong vào năm 2006.
Chiếc ống nhổ được sử dụng để chứa nước và bã trầu sau khi ăn trầu xong Ống có dáng tựa chiếc bình miệng loe cao, thân hình cầu, chân đế thấp. Tùy theo giai cấp, sự cao quý mà ống nhổ có thể được chế tác bằng vàng, bạc, ngọc.

ĐÈN ỐNG LAM

Nội dung chi tiết
Cây đèn là sự kết hợp nhiều yếu tố từ bầu đèn, họng đèn, thuỷ tinh đúc bầu đèn phải trong, không bị bọt. Ngoài chức năng thắp sáng, đèn còn được xem là vật trang trí thường đặt nơi bàn thờ, góc nhà… trông rất đẹp và sang trọng. Cây đèn ngày xưa được xem là một trong những vật dụng trang trí thể hiện sự giàu sang của gia chủ.

CÂN

Nội dung chi tiết
Chủ nhân là ông Lục Tấn Hưng, phường Phú Thủy, thành phố Phan Thiết.
Cân có gắn móc hoặc dĩa một đầu để treo, đặt hàng hóa. Phía trên có khoen sắt tròn để xách. Khi cân xách khoen sắt tròn lên và xê dịch quả cân trên đòn cân có khắc độ cho tới khi cân bằng, đọc con số trên đòn cân để biết trọng lượng. Thường dùng để cân những món đồ có trọng lượng nhỏ dưới 2kg.

TỔNG QUAN

Nội dung chi tiết
Giới thiệu văn hoá dân tộc Kinh: Hơn 300 năm (1692) hình thành, xây dựng và phát triển quê hương Bình Thuận, đến hôm nay trong tất cả các thời kỳ lịch sử - văn hóa của người Kinh (Việt) luôn luôn giữ vai trò là văn hóa chủ thể để cùng các dân tộc anh em khác xây dựng và bảo vệ quê hương. Trong đó ngoài những giá trị về văn hóa vật chất còn lưu giữ và phát huy như đình làng, lăng vạn, chùa chiền… thì văn hóa tinh thần luôn luôn nổi trội để duy trì và phát huy những giá trị của văn hóa hóa truyền thống.
 Trong dòng chảy đó của lịch sử, những di sản văn hóa luôn mang đậm dấu ấn của lịch sử, của văn hóa và của thời gian.
 Những di sản văn hóa ấy đã cho chúng ta nhìn nhận lại lịch sử một cách tổng quát trên cơ sở những hiện vật, những tư liệu và hình ảnh cụ thể, sinh động và bao quát. Tất cả các thời kỳ lịch sử đã qua đều được ghi lại bằng hiện vật và tư liệu lịch sử qua các bộ sưu tập chọn lọc.
 Do điều kiện về diện tích trưng bày trong đề cương trưng bày chuyên đề về văn hóa dân tộc Kinh (Việt). Hiện vật, hình ảnh và tài liệu lịch sử phải được chọn lựa phù hợp với nội dung trưng bày chuyên đề. Trong đó các sưu tập hiện vật, cổ vật nói về lịch sử hình thành, sinh hoạt văn hóa tinh thần, vật chất, lễ nghi, lễ hội đến những kiến trúc đình làng, chùa chiền… Chú trọng đến các sưu tập cổ vật trong văn hóa Phật giáo, trong văn hóa đình làng, chùa chiền và một số hiện vật liên quan đến các cuộc chiến tranh trong lịch sử.

VĂN HÓA DÂN TỘC KINH (VIỆT)

Danh mục

Nội dung chi tiết

1. TƯỢNG PHẬT THÍCH CA MẦU NI

Đức Phật Thích Ca Mầu Ni là vị Giáo chủ Phật giáo hiện tại. Ngài là vị Thái tử tên là Tất Đạt Đa, con Vua Tịnh Phạn và Hoàng hậu Ma Gia nước Ca Tỳ La Vệ thuộc Trung Ấn Độ. Ngài Giáng Sanh tại vườn Lâm Tỳ Ni vào ngày trăng tròn tháng 2 Ấn Độ, tức tháng 4 Âm lịch Trung Hoa.
Ngài xuất gia tìm đạo năm 29 tuổi, vượt qua bao chướng ngại thử thách tu hành, Ngài mộ đạo năm 35 tuổi. Sau khi giác ngộ thành Phật, Ngài đi khắp nơi thuyết pháp suốt 45 năm. Đến năm 80 tuổi, Ngài nhập Niết Bàn tại rừng Sa La Song - Thọ xứ Cưu Thi Na. Xá lợi Ngài được chia ra cho 8 nước xây tháp cúng dường.

4

3

1

2

<<

>>

TƯỢNG PHẬT NGOÀI

Nội dung chi tiết

2. TƯỢNG PHẬT A DI ĐÀ

Tượng Phật A Di Đà được phát hiện năm 2005 tại xã Hàm Chính, huyện Hàm Thuận Bắc.
Niên đại: thế kỷ XIX.
Theo truyền thuyết trong lịch sử Phật giáo thì Phật A Di Đà được tôn thờ sớm nhất trong lịch sử, tương truyền rằng phật A Di Đà kiếp trước là một vị vua, sau khi nghe Đức Phật thuyết pháp thì lập tức giác ngộ và từ bỏ ngai vàng mà đi theo Đức Phật để quy y, pháp danh là Pháp Tạng và đã thành Phật hiệu A Di Đà.
Tượng A Di Đà thường có những nét đặc trưng: đầu có các cụm tóc xoắn ốc, mắt nhìn xuống, miệng thoáng nụ cười cảm thông cứu độ, mình mặc áo cà sa, ngồi hoặc đứng trên tòa sen.


Nội dung chi tiết

3. TƯỢNG PHẬT QUAN ÂM

Phát hiện năm 1997, tại xã Phan Rí Thành, huyện Bắc Bình.
Quan Âm nguyên là Quán Thế Âm nhưng do tránh chữ Thế trong tên nhà vua Đường là Lý Thế Dân nên gọi là Quan Âm hoặc Quán Âm, là tên của Bồ Tát Quán Thế Âm tại Trung Hoa, Việt Nam và các nước lân cận.
Quan âm hiện thân trong mọi hình dạng để cứu độ chúng sinh, nhất là trong các nạn lửa, nước, quỷ dữ và đao kiếm. Phụ nữ không con cũng hay cầu Quan Âm. Quan Âm hay được nhắc tới bên cạnh Phật A Di Đà tại Trung Hoa và Việt Nam, Quan Âm hay được diễn tả dưới dạng nữ nhân.
Danh xưng Quan Thế Âm Bồ Tát có nghĩa là vị Bồ Tát luôn “ nhìn thấy” tiếng ai oán, khổ đau trong bến mê của chúng sinh và sẵn sàng cứu giúp hay nói pháp khi cần.


Nội dung chi tiết

4. TƯỢNG DI LẶC

Phát hiện năm 2005, tại xã Hàm Chính, huyện Hàm Thuận Bắc.
Di Lặc được xem là vị Phật thứ 5, kế thừa Phật Thích ca Mầu Ni và cũng là vị Phật cuối cùng xuất hiện trên trái đất. Di Lặc đã được giác ngộ hoàn toàn, chứng ngộ thành Phật, giảng dạy Phật Pháp và giáo hóa chúng sinh. Trong Phật giáo Tây Tạng, Di Lặc được thờ cúng rộng rãi. Trong tranh tượng, Phật Di Lặc được miêu tả bằng hình ảnh ngồi trên ngai vàng, hai chân bắt chéo hay đặt xuống sàn, hình ảnh mang ý Đức Phật sẵn sàng đứng dậy đi giáo hóa chúng sinh.
Phật Di Lặc được mô tả dưới dáng vẻ mập mạp, hiền hòa, tự tại, miệng luôn tươi cười.




Nội dung chi tiết

5. TƯỢNG ĐỊA TẠNG

Phát hiện năm 1991 tại thị trấn Phan Rí Cửa, huyện Tuy Phong.
Niên đại: thế kỷ XVIII-XIX
Địa Tạng là vị Bồ tát chuyên cứu độ chúng sinh trong địa ngục và trẻ con yểu tử. Có khi Địa Tạng cũng được xem cứu giúp lữ hành phương xa. Đó là vị Bồ Tát duy nhất được diễn tả bởi bạch hào (lông trắng xoáy nằm giữa 2 mắt, trên tráng) một trong 32 tướng tốt của 1 vị Phật.
Địa Tạng tay cầm Như ý châu sa và Tích tượng có 6 vòng biểu hiện cứu độ chúng sinh của Bồ Tát trong lục đạo.


TƯỢNG PHẬT TRONG TỦ KÍNH

Nội dung chi tiết

1.TƯỢNG QUAN ÂM

Phát hiện ở xã Hàm Chính, huyện Hàm Thuận Bắc năm 2005.
Quan Âm nguyên là Quán Thế Âm nhưng do tránh chữ Thế trong tên nhà vua Đường là Lý Thế Dân nên gọi là Quan Âm hoặc Quán Âm, là tên của Bồ Tát Quán Thế Âm tại Trung Hoa, Việt Nam và các nước lân cận.
Quan Âm hiện thân trong mọi hình dạng để cứu độ chúng sinh, nhất là trong các nạn lửa, nước, quỷ dữ và đao kiếm. Phụ nữ không con cũng hay cầu Quan Âm. Quan Âm hay được nhắc tới bên cạnh Phật A Di Đà tại Trung Hoa và Việt Nam, Quan Âm hay được diễn tả dưới dạng nữ nhân.
Danh xưng Quan Thế Âm Bồ Tát có nghĩa là vị Bồ Tát luôn “ nhìn thấy” tiếng ai oán, khổ đau trong bến mê của chúng sinh và sẵn sàng cứu giúp hay nói pháp khi cần.

Nội dung chi tiết

2. TƯỢNG ĐỊA TẠNG

Phát hiện ở xã Hàm Chính, huyện Hàm Thuận Bắc năm 2005.
Niên đại: thế kỷ XVIII-XIX
Địa Tạng là vị Bồ Tát chuyên cứu độ chúng sinh trong địa ngục và trẻ con yểu tử. Có khi Địa Tạng cũng được xem cứu giúp lữ hành phương xa. Đó là vị Bồ Tát duy nhất được diễn tả bởi bạch hào (lông trắng xoáy nằm giữa 2 mắt, trên tráng) một trong 32 tướng tốt của 1 vị Phật. Địa Tạng tay cầm Như ý châu sa và Tích tượng có 6 vòng biểu hiện cứu độ chúng sinh của Bồ Tát trong lục đạo.




Nội dung chi tiết

3. TƯỢNG HỘ PHÁP

Phát hiện ở xã Phan Rí Thành, huyện Bắc Bình năm 1997.
Niên đại: thế kỷ XVIII-XIX
Đa số các chùa ở Việt Nam thường thờ 2 tượng có khuôn mặt thiện và ác.
Đây là 2 tượng Hộ Pháp được tạc theo kiểu võ sĩ cổ, mình mặc áo giáp, đầu đội mũ, 1 tay cầm viên ngọc, vị kia tay cầm binh khí trong tư thế đứng hoặc ngồi.
Đây là những Thiện Thần phát nguyện, tự nguyện hộ trì, ủng hộ và duy trì Phật pháp.
Hình tướng các Ngài thường được tạo dựng to lớn, oai vệ như: Thiên Tướng mà nhân gian vẫn nói “ To như ông Hộ Pháp”.

Tin tức chính

©2020 Allrights reserved mystore.com

BẢO TÀNG BÌNH THUẬN

Địa chỉ: 04 Bà Triệu, Thành phố Phan Thiết, Bình Thuận

Hotline: 0252. 3834036

Email: baotangbt@svhttdl.binhthuan.gov.vn

Website: http://baotangbinhthuan.com

Trang chủ

Về chúng tôi

Tin tức

Liên Hệ