Trang chủ

Về chúng tôi

Tin tức

Liên hệ

BẢO TÀNG BÌNH THUẬN

TỔNG QUAN

VĂN HÓA CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ

Chủ nhân là Ông Mang Đăng, dân tộc Raglai ở xã Phan Dũng, huyện Tuy Phong, tỉnh Bình Thuận. Bảo tàng tỉnh Bình Thuận sưu tầm 2002.
Bung là dụng cụ đánh bắt cá của đồng bào Raglai, được ông Đăng làm bằng tre, kích cỡ nhiều loại to nhỏ tùy theo người sử dụng và tùy vào từng loại cá muốn đánh bắt. Hình dáng cũng rất đặc biệt, miệng thu nhỏ, bụng phình to, có làm một của nhỏ để cá vào, toàn thân được trét phân bò hoặc trâu để giữ kín.
Đây là dụng cụ dùng để đánh bắt ca hằng ngày, cải thiện bữa ăn gia đình.


Nội dung chi tiết

BUNG

Chủ nhân là ông Lưu Văn Lưu, thôn 7, xã Đức Tín, Đức Linh, Bình Thuận. Bảo tàng tỉnh sưu tầm năm 2002.
Là dụng cụ đánh bắt cá truyền thống của người Chơ ro.
Đời sống kinh tế của gười Chơ ro chủ yếu dựa vào tự nhiên “ đánh bắt, hái lượm” nên việc dùng Bung bắt cá đã góp phần vào nhu cầu đời sống của họ. Bung là công cụ dùng để đặt cá nước “ đứng” nên bung được đan dày hơn so với cái lợp, phía ngoài được quét một lớp phân trâu khi đặt thường được đặt đứng. So sánh công cụ này với đồng bào dân tộc khác thì nó có tính đặt trưng khác biệt, mang tính công phu và kỹ lưỡng hơn, chăc chắn hơn.
Bung được làm theo dạng hình thoi, phần dưới to, phần trên thu nhỏ dần, dưới cùng là phần nắp thuận tiện cho việc lấy cá.
Là dụng cụ đánh bắt cá ngoài sông, suối, để cải thiện đời sống hàng ngày của đồng bào Chơ ro.


Nội dung chi tiết

BUNG BẮT CÁ

Dùng để giã gạo của người Chơ ro, xã Gia Huynh, huyện Tánh Linh
Đời sống kinh tế của đồng bào Chơ ro chủ yếu là phát nương làm nương rẫy, làm lúa trỉa bắp, khoai, sắn là những thứ lương thực nuôi sống bản thân, gia đình và cộng đồng.
Người Chơ ro dùng những thân cây gỗ lớn làm cối, cây nhỏ thẳng dài làm chày. Đây là vật dụng thô sơ nhưng rất cần không thể thiếu được để giã gạo, bắp...
Họ làm cối ở chiều nắn theo thân gỗ, dưới có chân cạnh ở giữa khoét lỗ bỏ các loại hạt vào giã. Loại cối này rất thuận lợi, vừa giã nhanh vừa ít bị rớt văng ra ngoài.

Nội dung chi tiết

CỐI - CHÀY

Tin tức chính

Danh mục

Niên đại: cuối thế kỷ XIX
Nguồn gốc: người Còho ở xã Mê Pu, huyện Đức Linh
Ché là vật dụng dùng để đựng muối, gạo, đồ trang sức, vải vóc… nhưng phổ biến nhất là dùng để đựng rượu cần - loại rượu truyền thống của đồng bào các dân tộc thiểu số.
Ché được coi là tài sản quý của của đồng bào dân tộc thiểu số, vật dụng này hiện diện từ xa xưa đến nay trong mỗi buôn làng và trong mỗi gia đình.
Đồng bào dân tộc thiểu số đề cao tính cộng đồng và chịu sự chi phối của tín ngưỡng vạn vật hữu linh. Vì vậy mỗi gia đình đều ủ sẵn ché rượu để chuẩn bị cho các nghi lễ cúng tế và đãi khách. Rượu cần là lễ vật không thể thiếu để dâng hiến các vị thần linh cho nên ché là vật dụng mà mỗi gia đình phải có.
Ché được xem là tài sản quý của gia đình, dòng họ, ché có thể đổi ngang 01 con trâu.
Ché có 04 chấu, miệng loe, hoa văn hình bông hoa đắp nổi.
Có rất nhiều loại ché với nhiều hình dáng và tên gọi khác nhau như: ché túc, tang pô, pa…; theo quan niệm của đồng bào thì ché có liên quan đến chất lượng rượu; đựng trong ché cổ, ché quý thì rượu sẽ ngon hơn. Ché dùng để đựng rượu cúng thần linh trong các nghi lễ quan trọng của cộng đồng và gia đình.


Nội dung chi tiết

CHÉ

ĐƠM CÁ 

Nội dung chi tiết
Chủ nhân là ông Mang Chơi ở xã Tân Xuân, huyện Hàm Tân; Bảo tàng tỉnh sưu tầm năm 2013.
Đơm cá là vật dụng dùng để đơm bắt cá trên sông, suối rất phổ biến của đồng bào Raglai, chiếc đơm cá này được ông Mang Chơi đặt ở thị trấn Lạc Tánh, huyện Tánh Linh.
Ông dùng để đơm cá, tôm, cua… cải thiện bữa ăn hàng ngày của gia đình.

GẬY CHỌC LỖ TRA HẠT

Nội dung chi tiết
Sau khi phát dọn, đốt rẫy xong, đợi những cơn mưa đầu mùa vào tháng 5, báo hiệu mùa vụ gieo trồng đã đến. Phương thức gieo trồng truyền thống của đồng bào Cờho là chọc lỗ tra hạt.
Công cụ chọc lỗ được người Cờho chế tác từ cây gỗ hoặc cây tre cao 1,8 - 2m, vót nhọn đầu kiểu móng lợn hay bọc đầu nhọn bằng kim loại như hình bên. Khi lên rẫy, vào rừng, dụng cụ chính của người Cờho luôn mang bên người là chiếc gùi và cái chà gạc, đồ mang theo là sà ví đựng cơm, bầu đựng nước.

GÙI

Người Cờho rất khéo tay và chịu khó, ngoài nghề dệt thổ cẩm, người Cờho còn có nghề đan lát truyền thống vào thời gian nông nhàn, họ tạo ra những chiếc gùi bền chắc, có tính thẩm mỹ cao. Có nhiều loại gùi khác nhau, gùi cao to chắc khỏe dùng để đựng lúa mẹ, gùi đan thưa đơn giản dùng để hái củi, đựng bầu bí, bắp… Đây là vật dụng không thể thiếu trong lao động sản xuất và sinh hoạt hàng ngày của đồng bào.
Về hình dáng: miệng bo tròn, đáy hình vuông, có làm thêm tre hình 4 cạnh giữ cho gùi được thăng bằng.
Chủ nhân là bà Đặng Thị Hiếu, xã Ngũ Phụng, huyện Phú Quý
Là vật dụng để vận chuyển, mang tải hàng hoá, lương thực của cư dân huyện đảo.
Nội dung chi tiết

4

3

1

2

<<

>>

Nội dung chi tiết
Văn hoá dân tộc Cờ ho, Raglay…: Các dân tộc Raglai, Cờho, Mạ, Chăm được coi tại chỗ, cư trú lâu đời. Những dân tộc này có một nền văn hóa khá phong phú và đa dạng mang tính đặc trưng của vùng rừng núi, do đời sống của họ chủ yếu nương tựa nhiều vào tự nhiên, gắn bó chặt chẽ với tự nhiên trên nhiều lĩnh vực. Chính di sản của nền văn hóa tồn tại lâu đời đó của các dân tộc thiểu số có vai trò to lớn trong đời sống của cộng đồng. Do sống ở định cư lâu đời địa bàn vùng rừng núi, nên mọi phong tục tập quán, phương thức sản xuất cũng như lề lối xã hội đều được nảy sinh và hòa hợp giữa con người với thế giới tự nhiên.
Về phương thức sản xuất và tập quán lao động chủ yếu làm kinh tế nương rẫy, khai phá các sản vật của tự nhiên. Do đó các dân tộc thiểu số ở vùng núi như Raglai, Cờho, Mạ, Chơro… đều có những loại công cụ lao động phù hợp với việc phát nương làm rẫy như chà gạt, gùi, rựa, ché và vũ khí săn bắn như cung, nỏ, bẫy thú, lưới… Tất cả những loại công cụ lao động và vũ khí săn bắn đều được chế tạo tại chỗ, nhưng là những sáng tạo đáng kể phục vụ đắc lực cho cuộc sống mưu sinh của họ từ hàng thế kỷ qua và cho cả hiện nay vẫn còn sử dụng trong một số bộ phận người dân của các dân tộc.
Về văn hóa: trong văn hóa truyền thống và tâm linh tín ngưỡng, hầu hết các dân tộc ít người ở Bình Thuận đều theo tín ngưỡng đa thần với quan niệm vạn vật hữu linh, các lực lượng tự nhiên đều được thần thánh hóa và thờ cúng với niềm tin tuyệt đối. Họ quan niệm mọi hiện tượng trong tự nhiên từ hữu hình đến vô hình đều có linh hồn, cuộc đời của mỗi con người, mỗi gia đình, dòng tộc đều do các lực lượng tự nhiên ấy định đoạt. Họ luôn tin rằng trong thế giới tự nhiên có nhiều vị thần linh, là các đấng siêu nhiên sáng tạo ra muôn loài, có trách nhiệm trông coi và giúp đỡ đời sống cho buôn làng hay bản thân và gia đình. Do đó khi cúng tế họ đều khấn vái mời về chứng giám và hưởng lễ. Qua nhiều thế kỷ sống nương tựa vào tự nhiên, hòa hợp với tự nhiên nên trong văn hóa họ đã sáng tạo ra nhiều loại hình như dân ca, dân vũ, truyện cổ, ma thuật…Đặc biệt là hệ thống lễ nghi, lễ hội có nội dung phù hợp phục vụ cho việc cúng tế Yàng, nghi lễ đâm trâu cúng tế thần núi, dựng nêu trong lễ dời làng, các lễ nghi trong tết đầu lúa. Tất cả những lễ nghi, lễ hội đó đều phải cần đến âm nhạc, nên từ lâu các dân tộc thiểu số đều có một số loại nhạc cụ như trống, chiêng, kèn bầu, đàn chapi… hình thành nên một sưu tập nhạc cụ cần thiết trong đời sống tinh thần, nhất là trong văn hóa tâm linh tín ngưỡng của mỗi dân tộc. Đó là một trong những di sản có giá trị được lưu giữ và sử dụng qua nhiều đời, được lưu truyền cho các thế hệ hiện nay và mai sau.



TỔNG QUAN

VĂN HÓA CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ

Xuất xứ: ông Lưu Văn Lưu, thôn 7, xã Đức Tín, huyện Đức Linh, tỉnh Bình Thuận. Bảo tàng tỉnh sưu tầm năm 2005
Chiếc lợp có dạng hình thoi, là dụng cụ truyền thống của người Chơ ro.
Ông dùng mây chẻ ra, vót rồi đan thành chiếc lợp, sử dụng đánh bắt cá trên sông suối cung cấp thưc ăn cho gia đình.


Nội dung chi tiết

LỢP BẮT CÁ

Chủ nhân là ông Lê Văn Hiên, xã Gia Huynh, huyện Tánh Linh.
Ná là dụng cụ dùng để săn bắn của đồng bào Châu ro mỗi khi lên rẫy hay đi rừng.

Nội dung chi tiết

Của người Cờ ho được làm bằng ống lồ ô nhưng phải loại nhỏ, rỗng ruột, vừa tay cầm, dài từ 1-1,2m, khi tra hết mùa được cất giữ đến mùa sau đem ra sử dụng.


Nội dung chi tiết

ỐNG TRA HẠT

Tin tức chính

Danh mục

XA QUAY SỢI

Nội dung chi tiết
Là dụng cụ dệt vải của người Cờho, xã La Ngâu, huyện Tánh Linh
Kéo sợi, dệt vải là một trong những nghề thủ công truyền thống của các dân tộc Việt Nam nói chung. Tuy cách dùng dụng cụ kéo sợi có khác nhau.
Chiếc máy quay sợi này đã được bà Nguyễn Thị Hẳng sử dụng trên 30 năm để xe từng cuộn chỉ, đó là công đoạn rất cần thiết đối với nghề dệt vải thủ công.

KHUNG CÁN BÔNG

Là dụng cụ để dệt thổ cẩm của người Cờ ho, xã Phan Lâm, huyện Bắc Bình.
Có công dụng để cán những trái bông còn nguyên để loại bỏ hạt bông ra ngoài. Cấu tạo: Đế khung có 1 thanh gỗ dọc liên kết với 1 thanh gỗ ngang tạo sự thăng bằng, có 2 thanh gỗ đứng song song gắn kết với đế khung. Trên 2 thanh gỗ đứng có lắp tay quay nối 2 thanh gỗ tròn nằm song song sát cạnh nhau, người ta cho bông vào khe 2 thanh gỗ này và quay để loại hạt bông ra.
Nội dung chi tiết

TRỐNG DA NAI

Nội dung chi tiết
Là nhạc cụ cổ truyền của dân tộc Cờho với âm sắc và cấu tạo độc đáo. Chiếc trống được làm từ thân cây rỗng của một loại gỗ ván hương, hai mặt trống được làm từ da nai, thân trống hình ống cao, hai mặt trống phẳng, giữa thân trống có một sợi dây buộc treo lên giàn khi sử dụng, khi dùng cần 2 cây dùi (đầu buộc giẻ) đánh vào mặt trống âm thanh phát ra đứt đoạn không kéo dài.
Trống da nai chỉ sử dụng trong các nghi lễ lớn của đồng bào Cờho, ít sử dụng trong tang lễ.
Nội dung chi tiết

KÈN BẦU

Xuất xứ: người Còho, xã Đông Giang, huyện Hàm Thuận Bắc.
Là nhạc cụ thuộc bộ hơi sử dụng phổ biến trong các lễ nghi, lễ hội như: Tết ăn đầu lúa, lễ cúng Yàng, lễ cúng xuống hạt đầu mùa… Cấu tạo bên ngoài của kèn là một quả bầu, trên thân quả bầu có gắn 6 ống nứa dài ngắn khác nhau thông cả 2 đầu với đường kính từ 1-1.5 cm, 4 ống xếp thành một hàng, hàng thứ hai gồm 2 ống nằm phía dưới hàng kia. Hai ống nứa này tạo thành một góc 15 độ mà đỉnh gốc là phần xuyên qua thân quả bầu 1 cm.
Để cho quả bầu được kín và hơi thổi đều đi vào các ống nứa, người ta dùng nhựa cây hoặc sáp ong để bịt kín các chỗ hở, tiếp xúc giữa thân bầu và các ống nứa. Cuống của quả bầu được vát đi để làm nơi thổi. Trên mỗi ống nứa người ta làm một lưỡi gà bằng đồng thật mỏng hoặc lá buông, trên thân mỗi ống nứa đều có khoét 1 lỗ bấm.
Mỗi ống nứa cho 1 âm thanh khác nhau, ống dài cho âm thanh thấp và được bố trí theo nguyên tắc hòa âm độc đáo của người Cờho.

Nội dung chi tiết

GIỎ ĐỰNG CÁ

Là dụng cụ truyền thống của người Chơ ro.
Người Chơ ro sống chủ yếu dựa vào tự nhiên “đánh bắt, hái lượm” nên việc dùng giỏ để đựng cá đã trở nên phổ biến trong đời sống, lao động của họ.
Chiếc giỏ có hình dáng tựa con vịt, phía ngoài được trét 1 lớp phân trâu.
Cùng với chiếc bung, chiếc lợp, chiếc giỏ là vật dụng cần thiết dùng để đánh bắt cá của đồng bào Chơ ro

Nội dung chi tiết

NÁ - ỐNG TÊN

Của người Raglai xã Mỹ Thạnh, huyện Hàm Thuận Nam.
Ná là dụng cụ săn bắn, vũ khí được sử dụng phổ biến của người Raglai.
Ná có nhiều loại khác nhau, tùy theo người sử dụng, đây là chiếc thuộc loại vừa.
Người Raglai chế tạo chiếc ná gồm nhiều bộ phận hợp thành, họ đẽo gọt cây lồng mứt làm thân, có khắc rãnh để dắt mũi tên và tay cầm, lấy lõi cây bằng lăng hay cây “va noa” làm cánh cung và gọt tiện sừng nai hoặc mảnh nhôm làm cò.
Đi cùng với ná là tên và ống tên (hợp thành 1 bộ), sử dụng cây lồ ô làm tên và ống đựng tên. Tên được vót nhọn ở đầu, sau đó đem hơ lửa uốn cho thẳng, phần đuôi tên được lắp đuôi hình thoi bằng lá dứa rừng, ống tên là một thanh tre cắt ngắn, trên thân được khắc hoa văn hoặc hình các con thú.
Đây là dụng cụ săn bắt không thể thiếu của đồng bào Raglai ở đây, nó tạo thành 1 bộ dụng cụ về dân tộc học truyền thống.

CHẤT LIỆU MỘC

Xuất xứ: Ông Mang Ngoát, xã Đức Bình, huyện Tánh Linh, Bảo tàng tỉnh sưu tầm năm 2013.
Nơm úp cá được ông Mang Ngoát và các con ông đã tự tay đan để đánh bắt cá phục vụ cho cuộc sống hằng ngày của gia đình.
Đây là vật dụng được đồng bào Raglai sử dụng rộng rãi, phổ biến trong các gia đình.

Là công cụ đánh bắt cá truyền thống và đơn giản nhất của người Raglai.
Hình dáng: phía trên được đan nhỏ để thò tay vào bắt cá, phía dưới phình to để dễ đơm cá.

Nội dung chi tiết

RƠM CÁ

TỦ 1

4

3

1

2

<<

>>

Nội dung chi tiết
Văn hoá dân tộc Cờ ho, Raglay…: Các dân tộc Raglai, Cờho, Mạ, Chăm được coi tại chỗ, cư trú lâu đời. Những dân tộc này có một nền văn hóa khá phong phú và đa dạng mang tính đặc trưng của vùng rừng núi, do đời sống của họ chủ yếu nương tựa nhiều vào tự nhiên, gắn bó chặt chẽ với tự nhiên trên nhiều lĩnh vực. Chính di sản của nền văn hóa tồn tại lâu đời đó của các dân tộc thiểu số có vai trò to lớn trong đời sống của cộng đồng. Do sống ở định cư lâu đời địa bàn vùng rừng núi, nên mọi phong tục tập quán, phương thức sản xuất cũng như lề lối xã hội đều được nảy sinh và hòa hợp giữa con người với thế giới tự nhiên.
Về phương thức sản xuất và tập quán lao động chủ yếu làm kinh tế nương rẫy, khai phá các sản vật của tự nhiên. Do đó các dân tộc thiểu số ở vùng núi như Raglai, Cờho, Mạ, Chơro… đều có những loại công cụ lao động phù hợp với việc phát nương làm rẫy như chà gạt, gùi, rựa, ché và vũ khí săn bắn như cung, nỏ, bẫy thú, lưới… Tất cả những loại công cụ lao động và vũ khí săn bắn đều được chế tạo tại chỗ, nhưng là những sáng tạo đáng kể phục vụ đắc lực cho cuộc sống mưu sinh của họ từ hàng thế kỷ qua và cho cả hiện nay vẫn còn sử dụng trong một số bộ phận người dân của các dân tộc.
Về văn hóa: trong văn hóa truyền thống và tâm linh tín ngưỡng, hầu hết các dân tộc ít người ở Bình Thuận đều theo tín ngưỡng đa thần với quan niệm vạn vật hữu linh, các lực lượng tự nhiên đều được thần thánh hóa và thờ cúng với niềm tin tuyệt đối. Họ quan niệm mọi hiện tượng trong tự nhiên từ hữu hình đến vô hình đều có linh hồn, cuộc đời của mỗi con người, mỗi gia đình, dòng tộc đều do các lực lượng tự nhiên ấy định đoạt. Họ luôn tin rằng trong thế giới tự nhiên có nhiều vị thần linh, là các đấng siêu nhiên sáng tạo ra muôn loài, có trách nhiệm trông coi và giúp đỡ đời sống cho buôn làng hay bản thân và gia đình. Do đó khi cúng tế họ đều khấn vái mời về chứng giám và hưởng lễ. Qua nhiều thế kỷ sống nương tựa vào tự nhiên, hòa hợp với tự nhiên nên trong văn hóa họ đã sáng tạo ra nhiều loại hình như dân ca, dân vũ, truyện cổ, ma thuật…Đặc biệt là hệ thống lễ nghi, lễ hội có nội dung phù hợp phục vụ cho việc cúng tế Yàng, nghi lễ đâm trâu cúng tế thần núi, dựng nêu trong lễ dời làng, các lễ nghi trong tết đầu lúa. Tất cả những lễ nghi, lễ hội đó đều phải cần đến âm nhạc, nên từ lâu các dân tộc thiểu số đều có một số loại nhạc cụ như trống, chiêng, kèn bầu, đàn chapi… hình thành nên một sưu tập nhạc cụ cần thiết trong đời sống tinh thần, nhất là trong văn hóa tâm linh tín ngưỡng của mỗi dân tộc. Đó là một trong những di sản có giá trị được lưu giữ và sử dụng qua nhiều đời, được lưu truyền cho các thế hệ hiện nay và mai sau.



Nội dung chi tiết

ĐÀN CHA PI

Là một loại nhạc cụ độc đáo của người Raglai.
Đàn Chapi được làm từ một mắt cây tre (hay lồ ô) có chiều dài 30cm và đường kính dưới 10 cm. Người ta tách vỏ ống tre để làm dây, sau đó vót thật nhẵn miếng tre nhét vào giữa hai sợi dây song song để làm ngựa cho dây đàn tạo ra từ 5-8 dây. Khi chơi đàn nghệ nhân áp một đầu ống tre vào bụng, hai tay nâng đàn và dùng ngón tay để bật những sợi dây tạo ra những âm sắc thật độc đáo.
 cúng.
nhạc cụ cũng góp một phần quan trọng tạo không khí cho ngày lễ tết vui vẻ, ấm cúng. Đàn Chapi dùng để phục vụ cho những ngày lễ, tết của cộng đồng. Ngoài sản vật dâng cúng thì nhạc cụ cũng góp một phần quan trọng tạo không khí linh thiêng, nhộn nhịp vào dịp lễ, tết.
Chính cây đàn Chapi đã gợi cảm hứng để nhạc sỹ Trần Tiến viết lên ca khúc
“ Giấc mơ Chapi” với những ca từ mộc mạc, chân thành nhưng da diết:
“ Ở nơi ấy, họ đang sống cuộc sống yên bình
Ai nghèo cũng có cây đàn Chapi
Khi rung lên vài sợi dây đàn đã đong đầy hồn người Raglai”…



TỔNG QUAN

Tin tức chính

Danh mục

CHẬP CHÕE

Nội dung chi tiết
Là một loại nhạc cụ của người Cờho, xã Trà Tân, huyện Đức Linh
Chập chõe sử dụng trong lễ hội, lễ nghi.
Đây là loại nhạc cụ được cho là rất linh thiêng, chỉ sử dụng trong những mùa hội như lễ bỏ mã, lễ cúng mừng lúa mới, lễ đâm trâu, lễ cúng bến nước, thần Yàng…

Nội dung chi tiết

ĐỒNG LA (MÃ LA)

Đồng la (Mã la) của người Raglai xã Phan Dũng, huyện Tuy Phong. Đây là loại nhạc cụ không thể thiếu trong sinh hoạt cộng đồng của người Raglai. Mã la không có núm và quai xách, khi trình tấu người chơi nắm bàn tay gõ vào mặt chiêng. Chiếc Mã la có âm trầm nhất được gọi là mẹ, rồi đến cha, kế tiếp là các con từ con cả đến con út. Âm thanh nghe trầm bổng như hơi thở, nhịp tim của con người, khi sâu lắng, lúc lại rộn ràng âm vang trong lễ hội.
Mã la thường được đánh khi thực hiện các lễ nghi, lễ hội truyền thống như: lễ bỏ mã, lễ cưới, lễ mừng nhà mới, lễ ăn đầu lúa … Mã la còn được dùng trong sinh hoạt đời thường, trong các cuộc vui của gia đình, bạn bè. Người Raglai thường nói: “Hễ có rượu là có Mã la”.

Nội dung chi tiết

CHÀ GẠC

Là dụng cụ để chặt cây làm nhà, phát rẫy và tự vệ bản thân khi đối đầu với các loại thú dữ của người Raglai ở xã Mỹ Thạnh, huyện Hàm Thuận Nam.
Cán chà gạc được làm bằng đoạn gốc tre già, phía gốc chỗ tra lưỡi dao được uốn cong khá cầu kỳ vá sắc bén, lưỡi được tôi luyện, rèn rất chắc chắn và sắc.

CHẤT LIỆU KIM LOẠI

LỤC LẠC VÒNG

Nội dung chi tiết
Ông Nguyễn Thanh Tiền, xã Tân Nghĩa, huyện Hàm Tân phát hiện trong lúc đi rà phế liệu tại khu Đồi Pháo Binh thuộc địa phận xã Sông Phan, huyện Hàm Tân.
Lục lạc là đồ trang sức được sử dụng phổ biến, có lịch sử lâu đời.
Lục lạc có nhiều loại phong phú, có loại hình tròn, hình trứng, hình cầu, có loại giống như chiếc chuông hay cái loa. Thân dạng tròn, rỗng, miệng hở, có nhân bằng đồng bên trong, dùng để phát ra tiếng kêu khi được rung lắc.
Lục lạc thường được sử dụng trong các lễ nghi truyền thống như lễ đâm trâu, lễ mừng lúa mới, lễ cầu mưa... Trong các buổi lễ này, sử dụng lục lạc bằng đồng để xua đuổi tà ma, thường thì thầy pháp tay lắc lục lạc, miệng đọc bài khấn gửi đến các vị thần như: thần mặt trời, thần mặt trăng, thần sấm sét… đặc biệt là thầnYang.

RÌU

Nội dung chi tiết
Của ông Huỳnh Thúc Rinh, xã Mỹ Thạnh, huyện Hàm Thuận Nam.
Là dụng cụ dùng để làm cỏ của người Raglai.
Rìu là công cụ được sử dụng rộng rãi nhất trong mỗi gia đình để chặt cây, phát rẫy.

CUỐC

Nội dung chi tiết
Hiện vật của bà Nguyễn Thị Lý, xã Mỹ Thạnh, huyện Hàm Thuận Nam.
Là dụng cụ dùng trong sản xuất nông nghiệp của đồng bào Raglai.
Cuốc là công cụ được sử dụng phổ biến trong mỗi gia đình để cuốc đất, làm cỏ…
Đây là chiếc cuốc mà gia đình bà Lý tận dụng mảnh bom của địch thả xuống khu vực suối Bom Bi trong những năm kháng chiến chống Mỹ để rèn nên.

ĐẾ BÁT ĐỐT TRẦM

Nội dung chi tiết
Ông Dương Thanh Hùng, xã Thuận Hòa, huyện Hàm Thuận Bắc phát hiện tại khu rừng thuộc thôn 1 xã La Dạ và xã Thuận Hòa khi rà phế liệu.
Dùng để đốt trầm của người Cờho. Hiện vật trang trí hoa văn đầu thú, quả trám khắc xuyên qua hiện vật.

DAO

Nội dung chi tiết
Hiện vật của ông Phan Văn Đi, xã Mỹ Thạnh, huyện Hàm Thuận Nam
Dao dùng để vót nan đan gùi, thúng, nia… của đồng bào Raglai.
Dao này được ông Đi chế tạo từ một mảnh bom của máy bay Mỹ, cán dao được làm từ thân cây sầm vì - loại cây này vừa cứng và có độ cong thích hợp.

TỦ 2

CHẤT LIỆU MỘC

SÀ VÍ

Nội dung chi tiết
Vật dụng để sử dụng trong sinh hoạt gia đình, vật dụng đan bằng tre nứa dùng để đựng đồ của người Cờ ho.
Người Cờ ho thường dùng các loại cây cỏ lạt, sợi cây rừng tạo nên các loại đồ dùng để đựng đồ vật tuyệt đẹp và bền chắc. Sà ví lớn dùng để đựng thức ăn khô, còn Sà ví nhỏ dùng để đựng thuốc lá mỗi khi lên nương rẫy.

CỐI - CHÀY

Nội dung chi tiết
Dùng để giã gạo của người Chơ ro, xã Gia Huynh, huyện Tánh Linh.
Cuộc sống của đồng bào chủ yếu là phát rừng làm nương rẫy để trồng lúa trỉa bắp, khoai săn là những thứ lương thực chính nuôi sống bản thân, gia đình và cộng đồng.
Đến mùa lúa chín, thu hoạch đậu, bắp, mì để có thức ăn họ dùng những thanh gỗ lớn làm cối, cây nhỏ thẳng dài làm chày. Đây là vật dụng thô sơ nhưng rất cần không thể thiếu được.
Có sự khác biệt cối chày của dân tộc Chơ ro với các dân tộc miền núi khác.
Họ làm cối theo chiều nắn của thân gỗ, dưới có chân cạnh ở giữa khoét lỗ bỏ lúa hay bắp, mì, đậu để giã. Loại cối này rất thuận lợi vừa nhanh vừa ít bị rớt bung ra ngoài.



CỐI

Nội dung chi tiết
Chủ nhân là ông Mang Thanh, xã Đức Bình, huyện Tánh Linh
Ông làm vào năm 2001, dùng sử dụng trong gia đình người Raglai.
Cuộc sống của đồng bào chủ yếu là phát rừng làm nương rẫy để trồng lúa trỉa bắp, khoai săn là những thứ lương thực chính nuôi sống bản thân, gia đình và cộng đồng.
Đến mùa lúa chín, thu hoạch đậu, bắp, mì để có thức ăn họ dùng cối chày để giã.
Đây là vật dụng thô sơ nhưng rất cần không thể thiếu được.

ĐỒ ĐỰNG HẠT GIỐNG

Nội dung chi tiết
Chủ nhân là bà K’Thị Chớ, xã Đông Giang, huyện Hàm Thuận Bắc.
Năm 2009, chồng bà Chớ tự đan dùng để đựng hạt giống bầu, bí, bắp… phục vụ cho lao động sản xuất đồng bào Cờ ho

VÁ 

Nội dung chi tiết
Chủ nhân là bà K’Thị Chớ, xã Đông Giang, huyện Hàm Thuận Bắc.
Được làm từ thân cây lồ ô, dùng trong sinh hoạt gia đình.

4

3

1

2

<<

>>

Nội dung chi tiết
Văn hoá dân tộc Cờ ho, Raglay…: Các dân tộc Raglai, Cờho, Mạ, Chăm được coi tại chỗ, cư trú lâu đời. Những dân tộc này có một nền văn hóa khá phong phú và đa dạng mang tính đặc trưng của vùng rừng núi, do đời sống của họ chủ yếu nương tựa nhiều vào tự nhiên, gắn bó chặt chẽ với tự nhiên trên nhiều lĩnh vực. Chính di sản của nền văn hóa tồn tại lâu đời đó của các dân tộc thiểu số có vai trò to lớn trong đời sống của cộng đồng. Do sống ở định cư lâu đời địa bàn vùng rừng núi, nên mọi phong tục tập quán, phương thức sản xuất cũng như lề lối xã hội đều được nảy sinh và hòa hợp giữa con người với thế giới tự nhiên.
Về phương thức sản xuất và tập quán lao động chủ yếu làm kinh tế nương rẫy, khai phá các sản vật của tự nhiên. Do đó các dân tộc thiểu số ở vùng núi như Raglai, Cờho, Mạ, Chơro… đều có những loại công cụ lao động phù hợp với việc phát nương làm rẫy như chà gạt, gùi, rựa, ché và vũ khí săn bắn như cung, nỏ, bẫy thú, lưới… Tất cả những loại công cụ lao động và vũ khí săn bắn đều được chế tạo tại chỗ, nhưng là những sáng tạo đáng kể phục vụ đắc lực cho cuộc sống mưu sinh của họ từ hàng thế kỷ qua và cho cả hiện nay vẫn còn sử dụng trong một số bộ phận người dân của các dân tộc.
Về văn hóa: trong văn hóa truyền thống và tâm linh tín ngưỡng, hầu hết các dân tộc ít người ở Bình Thuận đều theo tín ngưỡng đa thần với quan niệm vạn vật hữu linh, các lực lượng tự nhiên đều được thần thánh hóa và thờ cúng với niềm tin tuyệt đối. Họ quan niệm mọi hiện tượng trong tự nhiên từ hữu hình đến vô hình đều có linh hồn, cuộc đời của mỗi con người, mỗi gia đình, dòng tộc đều do các lực lượng tự nhiên ấy định đoạt. Họ luôn tin rằng trong thế giới tự nhiên có nhiều vị thần linh, là các đấng siêu nhiên sáng tạo ra muôn loài, có trách nhiệm trông coi và giúp đỡ đời sống cho buôn làng hay bản thân và gia đình. Do đó khi cúng tế họ đều khấn vái mời về chứng giám và hưởng lễ. Qua nhiều thế kỷ sống nương tựa vào tự nhiên, hòa hợp với tự nhiên nên trong văn hóa họ đã sáng tạo ra nhiều loại hình như dân ca, dân vũ, truyện cổ, ma thuật…Đặc biệt là hệ thống lễ nghi, lễ hội có nội dung phù hợp phục vụ cho việc cúng tế Yàng, nghi lễ đâm trâu cúng tế thần núi, dựng nêu trong lễ dời làng, các lễ nghi trong tết đầu lúa. Tất cả những lễ nghi, lễ hội đó đều phải cần đến âm nhạc, nên từ lâu các dân tộc thiểu số đều có một số loại nhạc cụ như trống, chiêng, kèn bầu, đàn chapi… hình thành nên một sưu tập nhạc cụ cần thiết trong đời sống tinh thần, nhất là trong văn hóa tâm linh tín ngưỡng của mỗi dân tộc. Đó là một trong những di sản có giá trị được lưu giữ và sử dụng qua nhiều đời, được lưu truyền cho các thế hệ hiện nay và mai sau.



VĂN HÓA CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ

TỔNG QUAN

Nội dung chi tiết
Văn hoá dân tộc Cờ ho, Raglay…: Các dân tộc Raglai, Cờho, Mạ, Chăm được coi tại chỗ, cư trú lâu đời. Những dân tộc này có một nền văn hóa khá phong phú và đa dạng mang tính đặc trưng của vùng rừng núi, do đời sống của họ chủ yếu nương tựa nhiều vào tự nhiên, gắn bó chặt chẽ với tự nhiên trên nhiều lĩnh vực. Chính di sản của nền văn hóa tồn tại lâu đời đó của các dân tộc thiểu số có vai trò to lớn trong đời sống của cộng đồng. Do sống ở định cư lâu đời địa bàn vùng rừng núi, nên mọi phong tục tập quán, phương thức sản xuất cũng như lề lối xã hội đều được nảy sinh và hòa hợp giữa con người với thế giới tự nhiên.
Về phương thức sản xuất và tập quán lao động chủ yếu làm kinh tế nương rẫy, khai phá các sản vật của tự nhiên. Do đó các dân tộc thiểu số ở vùng núi như Raglai, Cờho, Mạ, Chơro… đều có những loại công cụ lao động phù hợp với việc phát nương làm rẫy như chà gạt, gùi, rựa, ché và vũ khí săn bắn như cung, nỏ, bẫy thú, lưới… Tất cả những loại công cụ lao động và vũ khí săn bắn đều được chế tạo tại chỗ, nhưng là những sáng tạo đáng kể phục vụ đắc lực cho cuộc sống mưu sinh của họ từ hàng thế kỷ qua và cho cả hiện nay vẫn còn sử dụng trong một số bộ phận người dân của các dân tộc.
Về văn hóa: trong văn hóa truyền thống và tâm linh tín ngưỡng, hầu hết các dân tộc ít người ở Bình Thuận đều theo tín ngưỡng đa thần với quan niệm vạn vật hữu linh, các lực lượng tự nhiên đều được thần thánh hóa và thờ cúng với niềm tin tuyệt đối. Họ quan niệm mọi hiện tượng trong tự nhiên từ hữu hình đến vô hình đều có linh hồn, cuộc đời của mỗi con người, mỗi gia đình, dòng tộc đều do các lực lượng tự nhiên ấy định đoạt. Họ luôn tin rằng trong thế giới tự nhiên có nhiều vị thần linh, là các đấng siêu nhiên sáng tạo ra muôn loài, có trách nhiệm trông coi và giúp đỡ đời sống cho buôn làng hay bản thân và gia đình. Do đó khi cúng tế họ đều khấn vái mời về chứng giám và hưởng lễ. Qua nhiều thế kỷ sống nương tựa vào tự nhiên, hòa hợp với tự nhiên nên trong văn hóa họ đã sáng tạo ra nhiều loại hình như dân ca, dân vũ, truyện cổ, ma thuật…Đặc biệt là hệ thống lễ nghi, lễ hội có nội dung phù hợp phục vụ cho việc cúng tế Yàng, nghi lễ đâm trâu cúng tế thần núi, dựng nêu trong lễ dời làng, các lễ nghi trong tết đầu lúa. Tất cả những lễ nghi, lễ hội đó đều phải cần đến âm nhạc, nên từ lâu các dân tộc thiểu số đều có một số loại nhạc cụ như trống, chiêng, kèn bầu, đàn chapi… hình thành nên một sưu tập nhạc cụ cần thiết trong đời sống tinh thần, nhất là trong văn hóa tâm linh tín ngưỡng của mỗi dân tộc. Đó là một trong những di sản có giá trị được lưu giữ và sử dụng qua nhiều đời, được lưu truyền cho các thế hệ hiện nay và mai sau.



VĂN HÓA CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ

Danh mục

CUNG BẮN BÔNG

Nội dung chi tiết
Dùng để làm tơi bông của người Cò ho, xã Đông Giang
Được làm từ một thanh tre có chiều dài 2,7 cm và dày 1cm, chiều dài 85cm, được uốn cong ở hai đầu, có 1 sợi dây nilon buộc nối giữa 2 đầu thanh tre rất căng, chính độ căng của sợi dây và co giãn của thanh tre mà người ta sử dụng để đưa bông vào bắn để các thớ bông bị ép bung ra. Đây là công đoạn thứ 2 của nghề dệt thủ công.

Nội dung chi tiết

GIẠ ĐONG LÚA

Chủ nhân là ông Nguyễn Tấn, xã Phan Rí Thành, huyện Bắc Bình.
Ông Nguyễn Thành anh của ông Nguyễn Tấn đặt mua của người dân tộc ở làng Suối Cát- Phan Điền năm 1952 dùng để đong gạo, lúa khi trao đổi mua bán.

SƯU TẬP LỤC LẠC, VÒNG LỤC LẠC, CHUÔNG, SƯU TẬP NHẪN, SƯU TẬP ỐNG ĐIẾU, SƯU TẬP VÒNG TAY ĐEO LÒ XO

Nội dung chi tiết
Chủ nhân là ông Nguyễn Văn May, ngụ khu phố 3, phường Phú Thuỷ, thành phố Phan Thiết.
Ông sưu tầm được từ các vùng rừng núi tại các huyện Tánh Linh, Đức Linh.
Niên đại: thế kỷ XVII

NỒI ĐỒNG

Nội dung chi tiết
Chủ nhân là ông K’Ghẻo, xã Mê Pu, huyện Đức Linh.
Nồi do ông bà để lại cho gia đình. Là vật dụng khá phổ biến của đồng bào Cờho

Nội dung chi tiết

GÙI

Chủ nhân là ông Nguyễn Văn Iếch, xã La Ngâu, huyện Tánh Linh
Là vật dụng của bà con Cờho dùng để đựng lúa trên nương mỗi khi vào mùa thu hoạch. Gùi do ông tự làm để sử dụng trong sinh hoạt gia đình.

Nội dung chi tiết

GÙI

Chủ nhân là ông K’Dỉ, xã Mê Pu, huyện Đức Linh
Là dụng không thể thiếu của đồng bào các dân tộc sử dụng trong sinh hoạt hằng ngày như đựng lúa, gạo, bắp…

CHẤT LIỆU KIM LOẠI

CỒNG CHIÊN

Nội dung chi tiết
Cồng chiêng là loại nhạc khí bằng hợp kim đồng thau, có khi pha bạc hoặc vàng. Cồng là loại có núm, chiêng không có núm. Đường kính từ 20 cm- 120 cm.
Cồng chiêng gắn bó mật thiết với cuộc sống của đồng bào Tây Nguyên, là tiếng nói của tâm linh, tâm hồn con người, để diễn tả niềm vui, nỗi buồn trong cuộc sống, trong lao động và sinh hoạt hằng ngày.
Theo các nhà nghiên cứu, cồng chiêng là hậu duệ của đàn đá. Từ thuở sơ khai, cồng chiêng được đánh lên để mừng lúa mới, xuống đồng; biểu hiện của tín ngưỡng - là phương tiện giao tiếp với các đấng thần linh. Tất cả các lễ hội trong năm đều phải có tiếng cồng chiêng như là thứ để kết nối những con người trong cùng một cộng đồng.
Theo quan niệm của đồng bào Tây Nguyên, đằng sau mỗi chiếc cồng, chiêng đều ẩn chứa một vị thần, cồng chiêng càng cổ thì quyền lực của vị thần càng cao. Cồng chiêng là tài sản quý giá, biểu tượng cho quyền lực và sự giàu có.
Ngày 18/3/2006 Tổ chức giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hiệp quốc (UNESCO) đã công nhận Không gian văn hóa Cồng Chiêng Tây Nguyên là kiệt tác truyền khẩu và Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại.


NỒI

Nội dung chi tiết
Chủ nhân là bà K’ Thị Hôn, xã Đông Giang, huyện Hàm Thuận Bắc.
Nồi là vật dụng không thể thiếu trong mỗi gia đình đồng bào Cờho.
Nồi dùng để nấu cơm, nấu nước… phục vụ đời sống hằng ngày mỗi gia đình.

4

3

1

2

<<

>>

Tin tức chính

©2020 Allrights reserved mystore.com

BẢO TÀNG BÌNH THUẬN

Địa chỉ: 04 Bà Triệu, Thành phố Phan Thiết, Bình Thuận

Hotline: 0252. 3834036

Email: baotangbt@svhttdl.binhthuan.gov.vn

Website: http://baotangbinhthuan.com

Trang chủ

Về chúng tôi

Tin tức

Liên Hệ