Trang chủ

Về chúng tôi

Tin tức

Liên hệ

BẢO TÀNG BÌNH THUẬN

Nội dung chi tiết
Văn hoá Chăm: Dân tộc Chăm là một trong những tộc người bản địa, sinh sống lâu đời trong suốt tiến trình lịch sử gần 2000 năm, trải dài trên đất miền trung Việt Nam từ Quảng Bình đến Bình thuận. Trải qua gần hai thiên niên kỷ ấy, người chăm đã sản sinh ra một nền văn hóa Chămpa phát triển đặc sắc, riêng biệt đã để lại đến ngày nay cho văn hóa Việt Nam số lượng di sản văn hóa vật thể và phi vật thể đồ sộ.
Người Chăm thuộc nhóm ngôn ngữ Malayo - Polynesia và loại hình nhân chủng Indonésien; có chữ viết riêng dựa trên chữ Phạn (Sanskrit) của Ấn Độ thường thấy được trên các bia ký và đến nay đã phát triển thành chữ Chăm thông dụng được gọi là Akhar Thrah.
Người Chăm ở tỉnh Bình Thuận có dân số 39.656 người (thống kê năm 2019), sinh sống tập trung ở 06 huyện: Tuy Phong, Bắc Bình, Hàm Thuận Bắc, Hàm Thuận Nam, Tánh Linh và Hàm Tân. Sống tụ cư theo các Palei (làng) gắn với cộng đồng tín ngưỡng, tôn giáo. Người Chăm theo đạo Bàlamôn tự gọi mình là Chăm Ahier và người Chăm theo đạo Bàni tự gọi mình là Chăm Awal. Người Chăm theo tín ngưỡng đa thần, thờ cúng tổ tiên vào dịp lễ hội Katê và Chabun, tục lập Kút và Chiết Atâu; tục tảo mộ dịp lễ Ramưwan…
Người Chăm Bình Thuận để lại nhiều di sản văn hoá nổi tiếng như: Bộ sưu tập hiện vật Hoàng tộc Chăm, nhóm đền tháp Po Sah Inư, tháp Po Dam, đền thờ vua Po Klaong mânai; di vật, cổ vật, phù điêu và nghề truyền thống tiêu biểu như: nghề làm gốm, nghề dệt thổ cẩm.



VĂN HÓA DÂN TỘC CHĂM

- Niên đại: Thế kỷ IX
- Chất liệu: Đá
- Kích thước: cao 61cm
- Tình trạng: bị gãy tay phải bên dưới
- Nguồn gốc, lịch sử phát hiện: Thuộc nền văn hóa Chămpa, phát hiện năm 2001 trong quá trình đào đất xây cống tại thôn Hồng Chính, xã Hòa Thắng, huyện Bắc Bình. Theo ông Mai Văn Chiến - người địa phương kể lại: pho tượng này được cha ông tìm thấy từ trước năm 1945 và lưu giữ trong gia đình. Sau đó, để tránh bị mất trộm gia đình đưa pho tượng chôn xuống đất. Năm 1996, trận lụt lớn ở Hòa Thắng đã làm pho tượng nổi lên trên mặt đất, một số người rất sợ nên đem pho tượng đi chôn lại. Về sau, ông Ngô Hiếu Học ở Hòa Phú mua lại khu đất này, trong quá trình đào đất xây dựng nhà ở và làm cống thoát nước đã phát hiện pho tượng.
- Khảo tả: Hiện vật là một tượng tròn thể hiện Bồ Tát dưới dạng nam, mặt vuông, đều đặn trong tư thế đứng thẳng, đầu đội mũ miện viền có ba bông hoa trước trán, trên đầu có chạm nổi pho tượng A Di Đà nhỏ nhưng rõ ràng sắc nét, hai tai kéo dài xuống tận cổ, có 4 tay, ngực để trần, thân dưới quấn dhoti dài, tay trái bên dưới cầm một bình nước thiêng (kamandalu), tay phải bên dưới (bị gãy), tay phải bên trên cầm một xâu chuỗi, 4 tay nối với nhau bằng một giá Vòm cung đỡ là điểm tựa cho toàn bộ tượng có hình chữ U ngược nằm ở phía sau, kết nối đầu tượng và bốn tay xuống phần bệ, tạo nên một cấu trúc thống nhất và vững chắc cho hiện vật.
đỡ hình chữ U ngược nằm ở phía sau gáy và dính liền với đầu, khuôn mặt hiền dịu được các nhà điêu khắc tả thực, độc đỡ là điểm tựa cho toàn bộ tượng có hình chữ U ngược nằm ở phía sau, kết nối đầu tượng và bốn tay xuống phần bệ, tạo nên một cấu trúc thống nhất và vững chắc cho hiện vật.

Nội dung chi tiết

TƯỢNG THẦN AVALOKITESVARA

Tin tức chính

Danh mục

TAY THẦN SIVA

Chất liệu: đá granít, màu đen xẫm
Kích thước: dài 20cm; chu vi 15cm
Tình trạng hiện vật: gãy thành 2 phần
Nguồn gốc, lịch sử phát hiện: phát hiện ở độ sâu 1,3m tại cửa tháp chính nhóm tháp Làng Gọ (Thuận Hòa, Hàm Thuận Bắc) trong đợt thăm dò và phát quật khảo cổ học tháng 11/2011.
Trong văn hoá Chămpa, thần Shiva được người Chăm tôn sùng và thờ phụng nhiều nhất bằng những hình thức khác nhau tại đền tháp ở các tỉnh Trung Trung bộ từ thế kỷ XIII trở về trước. Thần Shiva thường được thể hiện với bốn cánh tay và một con mắt thứ ba nằm ở giữa trán.
Bình Thuận, vùng đất cực Nam của vương quốc Chămpa nên cũng hiện diện rất nhiều đền tháp cổ. Trong đợt phát quật khảo cổ học nhóm đến tháp Chăm Làng Gọ năm 2011, đã phát hiện một mảnh đá như hình khuỷu tay đã bị gãy được mài nhẵn. Hiện vật nằm cách mặt đất 1,3m ở vị trí chính giữa lối đi vào cửa tháp chính. Tiếp tục đào sâu vào trong thì phát hiện thêm một mảnh cánh tay với đầy đủ cả bàn tay và 5 ngón được chạm khắc tinh tế, trau chuốt đến từng nét thể hiện trên từng ngón tay, móng tay. Khi ghép chúng lại thì thấy ăn khớp với nhau, cánh tay trong tư thế hơi co lại và đưa lên trên, bàn tay nắm lại. Điều đó cho thấy 2 mảnh này là từ một cách tay bị gãy ra từ tượng một vị thần, cùng với việc phát hiện đầu tượng thần Shiva cách đó hơn 1m, đã xác định đây là cánh tay tượng thần Shiva có niên đại vào khoảng thế kỷ VIII - IX, cùng niên đại với nhóm đền tháp Làng Gọ.
Việc phát hiện cánh tay và đầu tượng thần Shiva có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc nghiên cứu về lịch sử, kiến trúc, điêu khắc nghệ thuật và cả lĩnh vực tôn giáo, tín ngưỡng của người Chăm.

    TƯỢNG THẦN AVALOKITESVARA

Nội dung chi tiết
- Niên đại: Thế kỷ VII
- Chất liệu: Đá màu xám xanh
- Kích thước: cao 51cm
- Tình trạng: Nguyên vẹn
- Nguồn gốc, lịch sử phát hiện: Pho tượng do ông Mai Số phát hiện năm 2010 ở xã Phú Lạc, huyện Tuy Phong. Trong lúc cày đất làm rẫy đã phát hiện tượng thần Avalokitesvara, gia đình ông đã đưa pho tượng về nhà lập bàn thờ để thờ cúng.
- Khảo tả: Đây là một pho tượng thể hiện nghệ thuật điêu khắc hình tượng Bồ Tát trong văn hóa Chămpa. Bồ Tát (Avalokitesvara) thường được gọi lokesvara, còn trong một số bia kí thì viết là “ Padma pani” nghĩa là hoa sen, là tượng trưng của vị thần Bồ Tát hóa thân vào thường được thờ từ thế kỷ II sau Công nguyên. Tượng được tạc với tư thế đứng, trong chân liền lề theo dạng khắc thể khối.

- Niên đại: thế kỷ IX
- Chất liệu: đá
- Tình trạng: Chỉ còn lại phần ngà voi
- Nguồn gốc, lịch sử phát hiện: Khai quật tại phế tích tháp Chăm xã Mương Mán, huyện Hàm Thuận Nam năm 2007
- Khảo tả: Ganesha là một vị thần đáng kính trong Ấn Độ giáo, nhân dạng của thần là đầu voi mình người. Thần Ganesha tượng trưng của tài trí, hạnh phúc và thành công.
- Theo truyền thuyết Ấn Độ giáo thì thần Ganesha là con trai của thần Shiva và nữ thần Parvati, nữ thần Parvati luôn bị thần Shiva nhìn với ánh mắt thèm muốn nên nữ thần đã tìm cách bảo vệ mình. Do đó bà đã tạo ra thần Ganesha.
Khi Shiva đi săn trở về không nhận ra cơ thể nữ thần Parvati vì cơ thể nàng đã bị Ganesha chê mất. Shiva rất tức tối và đã chặt đứt đầu Ganesha. Parvati cầu xin Shiva để Ganesha được sống và cho Ganesha một cái đầu mới, để Parvati không đau khổ Shiva đã ra lệnh chặt đầu con vật đầu tiên ngài nhìn thấy gắn làm đầu Ganesha, và con vật ấy là con voi. Parvati - người đã tạo nên hình hài của thần voi Ganesha từ những phần nhơ nhuốc của cơ thể bà, sau này thần Ganesha được ban cho sự sống nhờ nước thánh của thần Ganga. Do đó thần Ganesha được xem như có hai bà mẹ là Parvati và Ganga.

Nội dung chi tiết

ĐẦU THẦN GANESHA

- Niên đại: thế kỷ
- Chất liệu: kim loại
- Tình trạng: Linga mất phần trên, đầu thần Shiva
- Hiện vật khai quật ở độ sâu cách mặt đất 40cm tại thôn 6, xã Hàm Đức, huyện Hàm Thuận Bắc vào năm 2004
- Đầu thần Shiva: cao 8,5cm, ngang 5cm, đầu búi tóc, dái tai dài, lông mày rậm, mũi sếch, cằm dài, có 3 con mắt, theo quan niệm của Ấn Độ giáo thì thần Shiva có 3 mặt, ngoài 2 con mắt thường còn có con mắt thứ 3 ở giữa trán hay còn gọi là nhãn huệ có thể nhìn xuyên suốt để huỷ diệt, một cái nhìn nảy lửa.
Shiva là thần huỷ diệt và sáng tạo, được người Chăm đề cao là thần linh tối cao. Nhưng đa số tượng của người Chăm được tạc bằng đá, còn tượng được đúc bằng kim loại thì vô cùng quý hiếm.
Linga: được đúc trên thể ống, có chiều cao 8,3cm, đường kính đáy 6,5cm, chu vi 19,5cm. Linga biểu hiện, tượng trưng cho sự sinh sổi nảy nở, nhưng đối với Linga này được đúc trên hình ống và làm nơi điểm tựa để gắn tượng thần Shiva.
Đầu thần Shiva - Linga bằng kim loại đã phản ánh phần nào nghệ thuật đúc tượng của người Chămpa chịu ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ đã tồn tại rất lâu đời tại vùng đất này. Tuy họ đã tiếp thu một cách có chọn lọc và sáng tạo nhưng vẫn kế thừa những giá trị của văn hóa dân tộc.
Nội dung chi tiết

KOSA LINGA

ĐẦU THẦN SIVA

Nội dung chi tiết
- Niên đại: thế kỷ VIII - IX
- Chất liệu: Đá granít màu đen xẫm
- Kích thước, trọng lượng: cao12,5cm, ngang 7,2cm, dọc 7,5cm. đầu tượng nặng 1kg.
Shiva là một trong những vị thần của Ấn Độ giáo cách đây khoảng 3500 năm. Theo tín ngưỡng của Ấn Độ giáo cổ đại thì Shiva là vị thần hủy diệt nhưng đồng thời ngài ngự trị trên đỉnh Kailasa của dãy Himalaya soi sáng khắp thế gian để duy trì sự tồn tại của thế giới.
Đầu tượng thần Shiva được phát hiện tại nhóm tháp Làng Gọ (Thuận hòa, Hàm Thuận Bắc). Đầu tượng được thể hiện với khuôn mặt trái xoan, cằm nở tròn, môi dày, dái tai to, dài và thẳng xuống, lông mày rậm và dài nối liền nhau tạo thành hình cánh cung. Mắt có con ngươi hơi lồi, cánh mũi rộng, ria mép rậm và dài ra hai bên; đầu đội mũ Kirita - Mukuta, kiểu mũ có ba tầng trang trí hoa văn trên mỗi tầng với những chi tiết đặc trưng, biểu hiện rõ nhất là con mắt thứ ba nằm dọc ở giữa trán và hình vẽ Linga phía sau đầu là dấu hiệu đặc trưng của tượng thần Shiva. Những chi tiết điêu khắc trên đầu pho tượng thể hiện tính mỹ thuật cao của nền điêu khắc Chămpa cổ.
Việc phát hiện tượng thần Shiva có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc ngiên cứu về lịch sử kiến trúc, điêu khắc nghệ thuật và cả lĩnh vực tôn giáo, tín ngưỡng của người Chăm trong lịch sử.

LINGA - YONI

Niên đại: thế kỷ VII - VIII
Chất liệu: đồng
Bộ Linga - Yoni do ông Lục Tấn Hưng (cư ngụ ở phường Phú Thủy, Tp. Phan Thiết sưu tầm năm 2001 tại huyện Tuy Phong. Năm 2007, ông đã trao lại cho Bảo tàng tỉnh Bình Thuận.
Khảo tả:
- Linga được đúc ở thể hình tròn rỗng cao 2cm, đường kính 3cm, bị sứt miệng.
-Yoni được đúc với hình ống tròn có chạm khắc nhiều hoa văn nổi (nhũ hoa) với dạng hình chóp chạy đều bao quanh cao 4,5cm; đk đáy: 5,7cm, đk miệng: 5cm
Bộ Linga - Yoni là một vật thờ linh thiêng của người Chăm theo đạo Bàlamôn, tượng trưng cho sự sinh sôi nảy nở của muôn loài. Đây là hiện vật quý hiếm không những ở Bình Thuận và cả Miền Trung, chứa đựng nhiều giá trị về văn hoá, lịch sử, tín ngưỡng tôn giáo và có tính nghệ thuật cao .

Nội dung chi tiết

1. BỘ SƯU TẬP TƯỢNG THẦN

TỔNG QUAN

Nội dung chi tiết

3

1

2

<<

>>

Nội dung chi tiết
Văn hoá Chăm: Dân tộc Chăm là một trong những tộc người bản địa, sinh sống lâu đời trong suốt tiến trình lịch sử gần 2000 năm, trải dài trên đất miền trung Việt Nam từ Quảng Bình đến Bình thuận. Trải qua gần hai thiên niên kỷ ấy, người chăm đã sản sinh ra một nền văn hóa Chămpa phát triển đặc sắc, riêng biệt đã để lại đến ngày nay cho văn hóa Việt Nam số lượng di sản văn hóa vật thể và phi vật thể đồ sộ.
Người Chăm thuộc nhóm ngôn ngữ Malayo - Polynesia và loại hình nhân chủng Indonésien; có chữ viết riêng dựa trên chữ Phạn (Sanskrit) của Ấn Độ thường thấy được trên các bia ký và đến nay đã phát triển thành chữ Chăm thông dụng được gọi là Akhar Thrah.
Người Chăm ở tỉnh Bình Thuận có dân số 39.656 người (thống kê năm 2019), sinh sống tập trung ở 06 huyện: Tuy Phong, Bắc Bình, Hàm Thuận Bắc, Hàm Thuận Nam, Tánh Linh và Hàm Tân. Sống tụ cư theo các Palei (làng) gắn với cộng đồng tín ngưỡng, tôn giáo. Người Chăm theo đạo Bàlamôn tự gọi mình là Chăm Ahier và người Chăm theo đạo Bàni tự gọi mình là Chăm Awal. Người Chăm theo tín ngưỡng đa thần, thờ cúng tổ tiên vào dịp lễ hội Katê và Chabun, tục lập Kút và Chiết Atâu; tục tảo mộ dịp lễ Ramưwan…
Người Chăm Bình Thuận để lại nhiều di sản văn hoá nổi tiếng như: Bộ sưu tập hiện vật Hoàng tộc Chăm, nhóm đền tháp Po Sah Inư, tháp Po Dam, đền thờ vua Po Klaong mânai; di vật, cổ vật, phù điêu và nghề truyền thống tiêu biểu như: nghề làm gốm, nghề dệt thổ cẩm.



VĂN HÓA DÂN TỘC CHĂM

Tin tức chính

Danh mục

TỔNG QUAN

Nội dung chi tiết

SƯU TẬP HIỆN VẬT NHÓM ĐỀN THÁP PÔSAHINƯ

2. BỘ SƯU TẬP HIỆN VẬT NHÓM ĐỀN THÁP PÔSAHINƯ

Tháp Pô Sah Inư thuộc phong cách nghệ thuật Hòa Lai, được xây dựng từ những viên gạch đỏ liên kết với nhau rất chắc chắn bởi một loại chất kết dính mà hiện nay nhiều giả thiết cho rằng đó là nhựa thực vật.
Năm 1994 trong quá trình thiết kế thi công tu bổ, tôn tạo các hạng mục của nhóm đền tháp Chăm PôSahInư, đã phát hiện nền móng của nhiều ngôi đền bị sụp đổ và bị vùi lấp cùng với gạch ngói và một số hiện vật trong lòng tháp có niên đại từ thế kỷ XV như:
1. Mảnh tai bò thần Nandin: bò thần Nandin được coi là vật cưỡi của thần Shiva và nữ thần Paravati, được thờ tại đền thờ, đền tháp lớn. Chính vì thế mà những người Chăm theo đạo Bàlamôn vẫn còn lưu giữ tín ngưỡng truyền thống đã kiên không ăn thịt bò.
2. Đầu tượng thần Shiva bằng đá
3. Mảnh chân bò thần Nandin
4. Gạch xây tháp, ngói xây tháp
5. Ống thổi (nhạc cụ thời xưa của người Chăm)
6. Vỏ ốc
7. Một phần của bệ Linga
8. Đế Kut


3. BỘ SƯU TẬP TƯỢNG KUT CHĂM

Tìm về nguồn gốc của bia, tượng Kút của người Chăm, tra lục các Thư tịch cổ Chăm thì tượng Kút được xuất hiện vào thời vương triều Pô Klong Garai (thế kỷ XII - XIII). Người Chăm theo đạo Bàlamôn gọi là Cam Ahier, khi người chết, xác được hỏa táng, khu nghĩa địa gọi là Kút. Ở người Chăm Bàlamôn, mỗi tộc họ phải xây dựng nhà Kút chung để thờ các bậc tổ tiên quá cố của họ tộc mình, Nhà Kút còn được gọi là sang muk kei (có nghĩa là nhà tổ).
Tượng có niên đại thế kỷ XV - XVII. Tượng cao 85cm, rộng 31cm, nặng 120kg.
Tượng được phát hiện trong lúc khai quật Gò Cà Nương (Chợ Lầu, Bắc Bình) lần 2 vào năm 2002, nơi này trước đây là nghĩa địa của giới quý tộc, hoàng tộc Chăm.
Bia Kút được tạc bằng đá xanh đen, có nhiều hoa văn hình ngọn lửa chạy từ phần chóp Kút xuống phần bụng Kút, ở giữa bụng có hình ngọn lửa trông giống hình Linga. Kút này tượng trưng cho giới nam.


Nội dung chi tiết
TƯỢNG KUT NAM GIỚI
Tìm về nguồn gốc của bia, tượng Kút của người Chăm, tra lục các Thư tịch cổ Chăm thì tượng Kút xuất hiện vào thời vương triều Pô Klong Garai (thế kỷ XII - XIII).
Phát hiện năm 2002, tại khu phế tích đền thờ Chăm thuộc khu vực Gò Cà Nương, thị trấn Chợ Lầu, huyện Bắc Bình.
Chất liệu: Đá xám nhạt, hạt mịn, độ cứng không cao, dễ đục chạm.
Hoa văn trang trí đơn giản, mặt trước trang trí chạm nổi những vân xoắn nối tiếp nhau như hình ngọn lửa, chạy dọc theo hai cạnh hai bên, dưới những vân xoắn này là hai dãy băng cắt ngang mặt và chạy dài qua bên hông, hai dãy băng trên trang trí chạm nổi những vân xoắn hình ngọn lửa nối tiếp nhau. Dãy băng dưới được chạm nổi 11 bông hoa mai nối tiếp nhau, hai mặt hông mỗi bên 3 bông, mặt trước 5 bông. Kút này tượng trưng cho giới nữ.

TƯỢNG KUT NỮ GIỚI
Chất liệu: đá xanh đen
Niên đại: thế kỷ IX
Kích thước: Yoni có hình vuông 35x35cm, dày 7cm, dài 23cm
Linga hình trụ, cao 13cm, đường kính 9cm có trang trí chạm trổ hoa văn.
Tình trạng hiện vật: Nguyên (đầu Linga có một vết trầy nhẹ)
Nguồn gốc lịch sử phát hiện: hiện vật do ông Võ Đức Tâm, cư ngụ ở thôn Đằng Thành, xã Mương Mán, huyện Hàm Thuận Nam phát hiện và bàn giao lại cho Bảo tàng Bình Thuận
Tục thờ Linga - Yoni có nguồn gốc từ cộng đồng người sống ở lưu vực Sông Ấn. Tín ngưỡng của họ gắn liền với thần thoại về Thần Mẹ và tục thờ cúng âm lực, coi sinh thực khí là nguồn gốc mọi sự sáng tạo.
Bộ Linga - Yoni được xem là biểu tượng hóa của thần Shiva, thường được thờ trong ngôi tháp chính của tháp Chăm, Linga là biểu hiện đặc tính dương, Yoni là biểu hiện đặc tính âm của thần. Âm dương kết hợp tạo ra vạn vật sinh sôi nảy nở.


Nội dung chi tiết

LINGA - YONI

4. BỘ SƯU TẬP LINGA YONI

Tháp Chăm Po Dam (Pô Tằm) tọa lạc tại thôn Lạc Trị, xã Phú Lạc, huyện Tuy Phong. Tháp xây dựng để thờ vua Po Dam hay còn gọi là Po Kathit (Bàn La Trà Duyệt) của người Chăm. Tuy chưa xác định rõ thời gian xây dựng tháp nhưng so sánh về phong cách nghệ thuật, các nhà khảo cổ học chỉ tạm xác định tháp Po Dam cùng niên đại với các tháp phong cách Hòa Lai (Ninh Thuận), có thể ở cuối thế kỷ thứ VIII, đầu thế kỷ thứ IX. Năm 2014, Bảo tàng Bình Thuận phối hợp với Viện Khảo cổ học Miền Nam tổ chức khai quật tháp Po Dam, đã phát hiện rất nhiều hiện vật như: gạch chỉ, gạch nền, gạch chốt, ngói lợp, ngói móc, kút đá,… bên cạnh có một số hiện vật bằng đồng như:
1. Hủ gốm: cao 8,5cm, Đk miệng 4,3cm, Đk bụng 9cm, Đk đế 5cm. Hiện vật còn nguyên, thân thấp, miệng nhỏ, vành miệng bo tròn, cổ thắt, bùng phình to, vai trang trí mô típ 4 quai nhỏ cân xúng, đế ngắn và lõm nhẹ, thân màu nâu tráng men.
2. Chuông: cao 7,3cm, rộng 5cm có quai, thân bị móp nhiều, miệng mẻ một góc nhỏ, quai có 2 đường chỉ nổi nhỏ chạy vòng, quai chuông hình tròn, có gờ nhỏ ở đỉnh vai, bề mặt bong tróc nhiều.
3. Chuông: cao 5cm, Đk miệng 7cm, Đk lỗ 1cm. Thân hình tròn, bị vỡ 1/3, miệng có gờ nổi, tạo điểm nhấn khác nhẹ, vai có đường chỉ nỗi nhỏ, đầu chuông có lỗ tròn đường kính 1cm.
4. Thước tầm: dài 19,5cm, Đk đầu 0,5-0,5cm, giữa thân rộng 0,6cm, dày 0,4cm. Hai đầu bo tròn, giữa thân có tiết diện hình chữ nhật, có 3 dãy hoa văn khắc chìm, mô típ chữ X.
5. Mũi giáo: Chiều dài còn lại 24cm làm bằng sắt, gãy làm bốn đoạn, bề mặt bị oxy hóa bong tróc nhiều, chuôi ngắn, lưỡi nhọn bị gãy.
6. Cán chuông làm bằng đồng có vết chế tác vành miệng loe cong, ở giữa có tạo gờ nổi lớn.
7. Cán chuông: cao 4,5cm, rộng 4,5cm, dày 1,8cm làm bằng đồng còn nguyên vẹn, một rìa cạnh bị vỡ, hai vành miệng loe cong chạy song song, giữa hai vành miệng có một rảnh lớn, bề mặt bị oxy hóa bong tróc nhẹ
8. Lục lạc: cao 3,5cm, Đk 2,1cm làm bằng đồng hình tròn, trên có quai
9. Nhẫn Mưta (chất liệu đồng), là nhẫn đeo của nam giới và nữ giới của người Chăm, mặt nhẫn có những lỗ tròn để trang trí những hạt trang sức, nhưng bị mất.
10. Chung: cao 2cm Đk 3cm làm bằng đất nung hình tròn
11. 12 Chập chõe: làm bằng đồng, hiện vật nhỏ, vành miệng loe nhẹ, bề ngoài bị bong tróc nhiều, ở giữa có một lỗ nhỏ đường kính 1cm
12. Mảnh gương: dài 11cm, dày 2cm, rộng 5cm, làm bằng đồng, bị vỡ còn lại 1/3, mặt gương phẳng bị bong tróc nhiều, viền bo tròn, mặt trên có chạm khắc nổi nhưng bị bong tróc nhiều không xác định rõ đường chạm khắc.


Nội dung chi tiết

SƯU TẬP HIỆN VẬT NHÓM THÁP CHĂM PÔ DAM

5. BỘ SƯU TẬP HIỆN VẬT NHÓM THÁP CHĂM PÔ DAM

PENSANI ( BÀN NGHIỀN)

Niên đại: Thế kỷ VIII- X
Chất liệu: Đá sa thạch nguyên khối
Khảo tả: Mỗi bộ Pensani gồm một vật hình trụ tròn và một đế, phần đế có mũi nhọn lớn hơn dạng hình thuyền, cao hơn phần đáy; đáy bằng nhỏ và thấp hơn phần mũi.
Pensani phát hiện ở Gò Cà Nương (Bắc Bình) và tại tháp Pô Sah I nư khi đào móng tu bổ tháp năm 1994
Pensani (bàn nghiền) thường đi liền nhau thành từng cặp theo tín ngưỡng phồn thực của cư dân nông nghiệp và được xem như là 2 bộ phận đực, cái (chày nghiền là đực và bàn nghiền là cái), thể hiện mưa thuận gió hòa, sinh sôi nảy nở, duy trì nồi giống. Pensani thường được đi theo bộ, trừ trường hợp bị mất một bộ phận chứ tuyệt nhiên không ai thờ lẻ từng bộ phận. Pensani thường được thờ trong các đền thờ của người Chăm.



Nội dung chi tiết

6. PENSANI

3

1

2

<<

>>

3

1

2

<<

>>

Nội dung chi tiết
Văn hoá Chăm: Dân tộc Chăm là một trong những tộc người bản địa, sinh sống lâu đời trong suốt tiến trình lịch sử gần 2000 năm, trải dài trên đất miền trung Việt Nam từ Quảng Bình đến Bình thuận. Trải qua gần hai thiên niên kỷ ấy, người chăm đã sản sinh ra một nền văn hóa Chămpa phát triển đặc sắc, riêng biệt đã để lại đến ngày nay cho văn hóa Việt Nam số lượng di sản văn hóa vật thể và phi vật thể đồ sộ.
Người Chăm thuộc nhóm ngôn ngữ Malayo - Polynesia và loại hình nhân chủng Indonésien; có chữ viết riêng dựa trên chữ Phạn (Sanskrit) của Ấn Độ thường thấy được trên các bia ký và đến nay đã phát triển thành chữ Chăm thông dụng được gọi là Akhar Thrah.
Người Chăm ở tỉnh Bình Thuận có dân số 39.656 người (thống kê năm 2019), sinh sống tập trung ở 06 huyện: Tuy Phong, Bắc Bình, Hàm Thuận Bắc, Hàm Thuận Nam, Tánh Linh và Hàm Tân. Sống tụ cư theo các Palei (làng) gắn với cộng đồng tín ngưỡng, tôn giáo. Người Chăm theo đạo Bàlamôn tự gọi mình là Chăm Ahier và người Chăm theo đạo Bàni tự gọi mình là Chăm Awal. Người Chăm theo tín ngưỡng đa thần, thờ cúng tổ tiên vào dịp lễ hội Katê và Chabun, tục lập Kút và Chiết Atâu; tục tảo mộ dịp lễ Ramưwan…
Người Chăm Bình Thuận để lại nhiều di sản văn hoá nổi tiếng như: Bộ sưu tập hiện vật Hoàng tộc Chăm, nhóm đền tháp Po Sah Inư, tháp Po Dam, đền thờ vua Po Klaong mânai; di vật, cổ vật, phù điêu và nghề truyền thống tiêu biểu như: nghề làm gốm, nghề dệt thổ cẩm.



VĂN HÓA DÂN TỘC CHĂM

Tin tức chính

Danh mục

TỔNG QUAN

Bộ sưu tập này được phát hiện trong đợt khai quật vào năm 2004 tại xã Hàm Đức, huyện Hàm Thuận Bắc; hiện vật nằm độ sâu khoảng 40cm, phía trên có nhiều mảnh ngói và gạch vỡ.
Qua nghiên cứu, so sánh, chúng tôi xác định niên đại vào khoảng thế kỷ XIX; đây là những hiện vật sử dụng hằng ngày trong đời sống sinh hoạt: bình vôi, hủ. Đặc biệt là bộ sưu tập bình vôi khá đa dạng với hình dáng, kích thước, chất liệu khác nhau.


Nội dung chi tiết

SƯU TẬP BÌNH VÔI

7. BỘ SƯU TẬP SƯU TẬP BÌNH VÔI

Trang phục Chú rể Bà la môn
1. Áo may bằng vải màu xanh nước biển, hoa văn chữ Song hủ màu trắng, tay raglan, cổ đứng, có 5 khuy thắt nút. Bạc màu trên vai và phần trước ngực.
2. Váy may bằng vải Kate trắng ố vàng, hai đầu viền ren, có tua
3. Khăn quấn đầu màu trắng, xung quanh viền thổ cẩm, hai đầu có tua
4. Dây thắt lưng thổ cẩm màu đỏ, vàng kim tuyến; tua hai đầu.
ảnh minh họa
1. Váy may bằng vải Kate trắng, viền chỉ xanh đỏ, tua hai đầu
2. Khăn quấn đầu Màu trắng, xung quanh viền thổ cẩm, tua hai đầu màu đỏ
3. Khăn màu trắng, xung quanh viền hoa văn thổ cẩm, tua hai đầu màu trắng
4. Khăn màu trắng, xung quanh viền hoa văn thổ cẩm, tua hai đầu màu trắng
5. Dây thắt lưng thổ cẩm, tua hai đầu màu đỏ
Trang phục chức sắc Bà Ni
ảnh minh họa
Trang phục chú rể Bà Ni
1. Áo may bằng chất liệu vải Kate trắng, tay Raglan, cổ cao 2m, 5 nút thắt, 2 túi dưới hai bên vạt áo
2. Khăn choàng màu trắng, viền thổ cẩm 2 bên chỉ màu vàng nâu, hai đầu có tua
3. Khăn quấn đầu màu trắng ố vàng, tua hai đầu và một số chỉ màu
4. Váy vải Kate trắng, hai đầu viền đăng ten có tua
ảnh minh họa
Trang phục cô dâu Bà Ni
1. Áo dài vải Kate trắng ố vàng, cổ viền hình tim, chui đầu, tay dài. Cổ áo rách 
2. Khăn quấn đầu màu trắng, dệt thổ cẩm xung quanh, hai đầu có tua
4. Váy thổ cẩm màu đỏ, vàng, có tua hai đầu

10. BỘ SƯU TẬP  LÒ GỐM PHÚ TRƯỜNG

BỘ SƯU TẬP LÒ GỐM PHÚ TRƯỜNG – THỊ TRẤN PHÚ LONG
HUYỆN HÀM THUẬN BẮC – BÌNH THUẬN

Lò gốm Phú Trường tọa lạc tại khu phố Phú Trường, thị trấn Phú Long, huyện Hàm Thuận Bắc. Năm 2005 trong quá trình san ủi đất làm đường, Nhân dân địa phương đã phát hiện hiện ra phế tích lò gốm này. Sau đó Bảo tàng Lịch sử Việt Nam (nay là Bảo tàng Lịch sử Quốc gia Việt Nam) tổ chức khai quật, phát hiện được nhiều hiện vật gồm: ống nhổ, hũ vôi, ấm pha trà, nồi đất, âu, đĩa, chén, cối, chân đèn, ống ghè, kala mặt khỉ, kala hình Makala, khuôn đúc hình bông hoa, khuôn đúc lư trầm, bình vôi.
Niên đại: Thế kỷ X-XI thuộc dòng gốm Chăm

Nội dung chi tiết

9.BỘ SƯU TẬP NHẠC CỤ VĂN HÓA CHĂM

Nhạc cụ là thành tố quan trọng để tạo nên phần hồn trong lễ hội Chăm. Nhạc cụ Chăm không chỉ là sản phẩm vật chất đơn thuần mà còn là phương tiện biểu diễn nghệ thuật mang lại biểu cảm thẩm mỹ trong đời sống tâm linh. Hầu hết các loại nhạc cụ Chăm nhằm mục đích để phục vụ cho lễ hội.
1. Trống Ghi năng
Có thân dài hình trụ, thường biểu diễn bằng cặp đôi để nghiên nằm chéo nhau. Trống làm bằng gỗ trắc hay bằng lăng khoét rỗng, một mặt bằng da nai, một mặt bằng da trâu, thân trống dài khoảng 72cm bào láng cả trong lẫn ngoài phơi phình ở giữa, 2 mặt căng da. Mặt nhỏ có đường kính 24cm căng da dê hay da mang, có 2 âm chính: tớ, tìn. Mặt trống lớn có đường kính 28 cm căng da trâu, có 2 âm chính: dit, gleng, đánh bằng dùi, như một nguyên tắc bất di, bất dịch, trống ghi năng bao giờ cũng đánh một cặp (họ quan niệm như âm với dương) và khi chơi được đặt chéo với nhau, một mặt tiếp đất, một mặt hướng lên trời.
2. Kèn Saranai
Là nhạc cụ định âm duy nhất hiện hữu trong đời sống tín ngưỡng và sinh hoạt của người Chăm.
Là nhạc cụ thổi bằng hơi, cấu trúc gồm 3 phần gắn liền nhau: phần chuôi kèn (gali) làm bằng đồng, bên trong có gắn lưỡi gà bằng lá buông dùng để thổi; phần thân (rup) làm bằng gỗ đục rỗng 7 lỗ chính phía trên và một lỗ phụ ở phía dưới để điều khiển các nốt nhạc; phần thứ 3 là loa kèn làm bằng gỗ quí, sừng trâu hoặc ngà voi, rỗng ruột.
3. Trống Baranưng
Đây là loại trống tròn, bịt da hai mặt, đường kính khoảng 45cm, thân trống làm bằng gỗ đục rỗng, mặt trống bằng da mang hay da dê. Xung quanh thân trống có đục 12 lỗ, mỗi lỗ được giữ chặt bằng mỗi con nem và xó quấn dây mây xung quanh. Đây là bộ phận tăng giảm âm thanh và nốt nhạc của trống, trống có 3 âm chính: tắc, tăm, tầm được người Chăm xem như một bộ phận của lồng ngực “ ục phủ ngũ tạng” (aphik ala agôl).
4. Đàn Kanhi
Là loại đàn kéo một dây, tương tự như đàn nhị của người Kinh. Thân đàn Kanhi được làm bằng mai rùa vàng hay xác con sam biển. Trên thân mai rùa vàng có gắn một đoạn tre nhỏ đặc cỡ ngón chân cái, dài khoảng 65 cm. ở đầu đoạn tre này có hai loại cần kéo dây gọi là hai tai Kanhi. Từ hai cần kéo (hai tai) nối xuống với cây tre bằng một sợi dây là dây đàn chính của Kanhi. Ngoài ra cần kéo này nối với cây tre bằng lông đuôi ngựa uốn cong như cánh cung. Đây chinh là dây kéo của đàn Kanhi tạo ra âm thanh, đàn được cấu tạo gồm 5 âm, có thể được những âm cao, diễn tả được những tình cảm êm ái, ngọt ngào… Nhạc đàn Kanhi chỉ dùng để đệm giọng khi hát lễ tiễn đưa hồn người chết về với thế giới bên kia.



Nội dung chi tiết

BỘ SƯU TẬP NHẠC CỤ VĂN HÓA CHĂM

8. BỘ SƯU TẬP TRANG PHỤC TRUYỀN THỐNG NGƯỜI CHĂM

Người Chăm ở Bình Thuận có hai tôn giáo lớn là Chăm Ahier ( Chăm BàLamôn) và Chăm Awal ( hồi giáo củ/ Bà Ni). Do khác nhau về giáo luật, về cách thức hành lễ nên một số vấn đề liên quan đến đời sống xã hội cũng khác nhau, trong đó trang phục của chức sắc tôn giáo, trang phục cưới,…Số hiện vật trên trong sưu tậptrang phục của 2 tôn giáo chức sắc Bàlamôn (thầy kanhi, thầy xế,thầy vỗ); các chức sắc hồi giáo cũ (sư cả, mum, char) và một số trang phục, cô dâu, chú rễ 2 đạo.
Nội dung chi tiết

SƯU TẬP TRANG PHỤC TRUYỀN THỐNG NGƯỜI CHĂM

Trang phục Cô dâu Bà la môn
1. Áo dài: May bằng vải silk màu hồng, tay dài, cổ viền trái tim, chui đầu
2. Váy: Màu đen, dệt kim tuyến vàng, tua 2 đầu
ảnh minh họa
ảnh minh họa

NHÓM HIỆN VẬT PHÁT HIỆN TẠI DI CHỈ TÀ LÚ, XÃ PHAN SƠN, HUYỆN BẮC BÌNH


     Quá trình phát hiện: Cuối năm 2020, Bảo tàng tỉnh Bình Thuận nhận được tin báo của chính quyền địa phương xã Phan Sơn, huyện Bắc Bình về việc có một nhóm người lạ đến đào, dò tìm đồ cổ tại khu vực mồ mả (nghĩa địa) xưa của ông bà, làm xuất lộ nhiều xương cốt, cùng mảnh vỡ đồ gốm sứ, công cụ lao động xưa… gây hoang mang dư luận, làm ảnh hưởng đến tâm lý, đời sống của Nhân dân địa phương.
Bảo tàng tỉnh đã kịp thời phối hợp với chính quyền địa phương tổ chức khảo sát, đào thăm dò, nghiên cứu, bảo vệ khu di chỉ này; đồng thời có ý kiến trao đổi để người dân yên tâm lao động sản xuất.
     Vị trí địa lí: Di chỉ Tà Lú nằm trên khu đất của ông K’Chang (giáp với ruộng lúa ông K’Sẻ về phía Đông) ở cao độ 146m so với mực nước biển, cách Ủy ban nhân dân xã Phan Sơn khoảng 2,5 km về phía Tây Bắc. Di chỉ tọa lạc giữa một thung lũng xung quanh được bao bọc bởi các dãy núi nhấp nhô thuộc thôn Tà Mon, xã Phan Sơn, huyện Bắc Bình.
     Di vật phát hiện trên bề mặt gồm 5 nhóm như sau:
     * Đồ gốm: Phát hiện số lượng lớn các mảnh vỡ từ các vật dụng như: tô, chén, hũ, ấm, hộp phấn… Đã tiến hành phục dựng 01 chiếc hũ tương đối còn nguyên hình dáng, cao 15cm màu trắng ngà. Theo đánh giá của các nhà chuyên môn, chiếc hũ dùng để đựng nước thánh trong thực hiện các nghi lễ tôn giáo xưa, thuộc dòng gốm Nam Tống - Trung Quốc, niên đại khoảng thế kỉ XI - XIII.
     * Trang sức: Phát hiện được nhiều loại hình khá đa dạng như: Lục lạc đồng (20 chiếc còn nguyên), nhẫn đồng sừng bò (01 chiếc nguyên), nhẫn đồng khắc chữ Phạn cổ (01 chiếc), nhẫn khắc hoa Champa (03 chiếc nguyên) , vòng tay, chuỗi ngọc trai… mang đậm sắc thái văn hoá Chăm. Đặc biệt là chiếc khuyên tai bằng chất liệu vàng, đường kính 2,7 cm (khoảng 4,7 chỉ vàng) có dạng hình tròn, xoắn ốc thuộc văn hoá Chăm, niên đại khoảng từ thế kỷ XI - XIII. Qua đối chiếu, so sánh, chiếc khuyên tai phát hiện tại di chỉ Tà Lú có nhiều nét tương đồng với chiếc khuyên tai tại Bảo tàng tổng hợp tỉnh Quảng Ngãi đã được công nhận bảo vật quốc gia.
     * Công cụ lao động: Chủ yếu là rìu sắt, dao sắt, thuổng sắt (khoảng 12 chiếc còn nguyên vẹn) đa phần đã bị hoen rỉ, mất hình dáng ban đầu.
     * Vũ khí: Kiếm sắt, mũi lao, mũi giáo, mũi tên (07 chiếc còn nguyên nhưng đã rỉ sét) chủ yếu là chất liệu sắt, không phát hiện chất liệu kim loại đồng.
     * Đồ dùng trong nghi lễ: Nhóm hiện vật này chủ yếu là thau, chậu, bát bằng đồng dùng để đựng nước thánh thực hiện các nghi lễ tôn giáo mang đậm dấu ấn văn hoá Chăm.
     Nhận xét chung:
     - Về loại hình di tích: Căn cứ vào quả kết quả khảo sát thực địa và các chủng loại hiện vật phát hiện được, có thể xác định đây là di tích mộ táng của người xưa được xếp vào tầng lớp hoàng tộc, quý tộc giàu có thời bây giờ. Tuy nhiên, để biết được đây là di tích mộ táng chôn theo phong tục truyền thống hay là chôn vì một nguyên nhân nào đó như: dịch bệnh, cải táng lại thì cần có sự can thiệp của khoa học về giám định di cốt. 
     - Về chủ nhân của của khu mộ táng: Dựa vào kết quả thăm dò, nghiên cứu, bước đầu nhận định chủ nhân của di chỉ này có thể là người Chăm hoặc Raglay, Cờ ho.
     - Về niên đại: Căn cứ vào địa tầng di chỉ, bước đầu xác định niên đại nhóm hiện vật phát hiện tại di chỉ Tà Lú khoảng từ thế kỷ XI - XIII. Tuy nhiên, do địa tầng di chỉ đã bị xáo trộn nên cần thiết phải tiến hành khai quật ở quy mô lớn hơn, có sự tham gia của các nhà khoa học chuyên về di tích mộ táng để có một kết quả chính xác hơn.
     Nhóm hiện vật phát hiện tại di chỉ Tà Lú, xã Phan Sơn, huyện Bắc Bình được trưng bày, giới thiệu tại Bảo tàng tỉnh Bình Thuận chứa đựng nhiều giá trị độc đáo về lịch sử, văn hoá, thẩm mỹ. Đây là nguồn tư liệu quý phục vụ nghiên cứu, giáo dục các thế hệ hôm nay và mai sau hiểu biết, yêu quý, trân trọng, cùng chung tay bảo vệ di sản văn hoá địa phương./.

MỘT SỐ HÌNH ẢNH DI CHỈ TÀ LÚ

Cán bộ Bảo tàng điền dã di chỉ

Cán bộ Bảo tàng cùng với cán bộ xã
kiểm tra di ch

Một số công cụ và vũ khí

Bộ sưu tập trang sức

Bộ sưu tập công cụ

Một số mảnh gốm tại di chỉ

©2020 Allrights reserved mystore.com

BẢO TÀNG BÌNH THUẬN

Địa chỉ: 04 Bà Triệu, Thành phố Phan Thiết, Bình Thuận

Hotline: 0252. 3834036

Email: baotangbt@svhttdl.binhthuan.gov.vn

Website: http://baotangbinhthuan.com

Trang chủ

Về chúng tôi

Tin tức

Liên Hệ

Trang chủ

Về chúng tôi

Tin tức

Liên Hệ

Trang chủ

Về chúng tôi

Tin tức

Liên Hệ